Năm 1834, Tàu chiến Hoàng gia Anh HMS Beagle đã đi đến Patagonia để thực hiện một chuyến thám hiểm khoa học và dừng lại ở Đảo Chiloé trên bờ biển phía tây Chile. Charles Darwin, một nhà tự nhiên học trẻ tuổi trên tàu, đã đổ bộ lên đảo và bắt đầu quan sát hệ thực vật và động vật trên đảo.
Vào thời điểm đó, không ai biết rằng nhà tự nhiên học trẻ tuổi đầy năng lượng này sẽ đặt nền móng cho một học thuyết vĩ đại có ảnh hưởng sâu rộng trong những chuyến thám hiểm vòng quanh thế giới của ông.
Darwin ở tuổi 51 | Ông Maull và Fox/ Wikimedia Commons
Ở đó, Darwin đã bị cuốn hút bởi một loại cây họ cà có khả năng thích nghi cao ở Nam Mỹ. Ông đã viết trong nhật ký về khám phá đáng kinh ngạc của mình: "Cùng một loại cây xuất hiện ở những ngọn núi cằn cỗi ở miền trung Chile, nơi không có mưa trong sáu tháng, và trong những khu rừng ẩm ướt ở các đảo phía nam."
Cây họ cà này là cây khoai tây (Solanum tuberosum). Ông phát hiện ra rằng do khí hậu ở đây ấm áp và ẩm ướt, tương tự như khí hậu ở Vương quốc Anh nên cây khoai tây trồng trên đảo rất cao, có thể cao tới hơn 1 mét, củ khoai tây dưới lòng đất nhỏ và có hình bầu dục, rất giống với khoai tây được trồng ở Anh. Loại khoai tây này sẽ trở nên nhạt nhẽo sau khi luộc trong nước.
Darwin đã thu thập mẫu khoai tây từ đảo Chiloé của Chile và mang chúng trở về Anh. Ông suy ra rằng tất cả khoai tây trên đảo đều là khoai tây hoang dã và cư dân địa phương đã thuần hóa và trồng các loài hoang dã này, rồi tiến hóa thành khoai tây, một loại cây trồng rộng rãi trên khắp thế giới.
Ra khỏi Nam Mỹ và vào Châu Âu
Ngày nay, mọi người lại một lần nữa nghiên cứu mẫu khoai tây do Darwin thu thập từ Chile, với hy vọng sử dụng mã di truyền để giải mã bí ẩn về lịch sử khoai tây. Để truy tìm nguồn gốc của các giống khoai tây trồng hiện đại, các nhà nghiên cứu đã trích xuất DNA từ 88 mẫu.
Những phát hiện này cho thấy khoai tây hiện đại có nguồn gốc từ khoai tây Andes và khoai tây Chile, cả hai đều góp phần tạo nên giống khoai tây được trồng ngày nay.
Khoai tây Chile | Avodrocc/Wikimedia Commons
Hầu hết các học giả tin rằng khoai tây Andes có niên đại lâu đời hơn. 8.000 năm trước, người da đỏ sống ở cao nguyên Andes đã bắt đầu trồng khoai tây. Sau đó, khoai tây được lan truyền về phía bắc và phía nam. Trên cao nguyên Andes thuộc Peru ngày nay và vùng đất thấp ở miền trung và miền nam Chile, người dân địa phương đã dần dần trồng hàng nghìn giống khoai tây khác nhau, khiến hai vùng này trở thành hai nguồn gốc quan trọng của các giống khoai tây hiện đại.
Trong hàng ngàn năm, việc trồng khoai tây chỉ giới hạn ở Nam Mỹ. Đây là một loại thực phẩm quan trọng của người bản địa Nam Mỹ nhưng lại không được thế giới biết đến nhiều. Một truyền thuyết phổ biến kể rằng Columbus đã mang khoai tây về châu Âu, tuy nhiên, Columbus chưa bao giờ đặt chân đến Nam Mỹ. Không có dấu hiệu nào cho thấy Columbus, người "phát hiện ra" châu Mỹ, từng gặp khoai tây - nếu không, nhà thám hiểm này, người rất quan tâm đến các loại cây trồng, hẳn đã để lại ít nhất một vài từ về chúng.
Một loại khoai tây có nguồn gốc từ dãy Andes | Cuộc sống tự nhiên Kiwa/ Wikimedia Commons
Khi những người thực dân Tây Ban Nha di chuyển sâu hơn vào Nam Mỹ, người châu Âu bắt đầu chú ý đến khoai tây Andes. Theo ghi chép của các nhà thám hiểm Tây Ban Nha, khoai tây có tác động rất lớn đến người Inca và hỗ trợ hoạt động của toàn bộ Đế chế Inca. Trong mắt người Inca, loại cây trồng năng suất cao này có linh hồn riêng của nó. Mỗi loại khoai tây đều có một tên gọi riêng và được người Inca tôn kính là "Thần thu hoạch". Nếu vụ thu hoạch khoai tây không được tốt, người dân địa phương sẽ tổ chức một lễ hiến tế lớn và đẫm máu để dâng lên "Thần mùa màng", không chỉ bao gồm gia súc mà còn cả trẻ em trai và gái. Chỉ bằng cách này, "Thần mùa màng" mới có thể nguôi cơn giận và ban phước cho một vụ mùa bội thu trong năm tới. Những nghi lễ đẫm máu như vậy đã được lưu truyền ở Đế chế Inca trong hàng ngàn năm.
Những người thực dân Tây Ban Nha chỉ coi trọng vàng và không mấy quan tâm đến cây trồng địa phương. Trong cuộc chinh phạt đẫm máu, người Tây Ban Nha đã giết vua Inca, phá hủy Đế chế Inca và mang khoai tây trở lại châu Âu như một đặc sản kỳ lạ.
Tên tiếng Anh của khoai tây thực ra có lịch sử lâu đời. Người da đỏ Taino gọi khoai lang là "batata"; trong tiếng Quechua Nam Mỹ, khoai tây được gọi là "papa". Từ này trở thành từ "patata" trong tiếng Tây Ban Nha và sau đó là từ "potato" trong tiếng Anh. Từ "khoai tây" trong tiếng Anh ngày nay thực ra ban đầu dùng để chỉ khoai lang. Để tránh nhầm lẫn, sau này người ta dùng từ "khoai lang" để chỉ khoai lang, và "khoai tây" trở thành tên gọi riêng của khoai tây.
Khoai lang được gọi là "khoai lang" | Chương trình Cao đẳng Louisiana Sea Grant / Wikimedia Commons
Sau đó, khoai tây Andes và khoai tây Chile rời bỏ quê hương và du nhập vào châu Âu thông qua các kênh khác nhau. Vào năm 1596, nhà thực vật học người Thụy Sĩ Gaspard Bauhin đã chính thức đặt tên cho cây Solanum có nguồn gốc từ Nam Mỹ này là Solanum tuberosum. Từ ngữ cụ thể "tuberosum" có nghĩa là củ ngầm. Đây cũng là mô tả khoa học đầu tiên về khoai tây.
Táo quỷ, thực phẩm chính của người nghèo
Không giống như khoai lang, một loại cây trồng phổ biến khác của Mỹ, trong một thời gian dài sau khi khoai tây du nhập vào châu Âu, nó chỉ là một loại hoa trang trí trong vườn của giới quý tộc châu Âu, và củ ngầm giàu dinh dưỡng của nó được dùng làm thức ăn cho gia súc.
Hoa khoai tây | Danny S./Wikimedia Commons
Khoai tây được giấu dưới lòng đất, và người ta cho rằng chúng độc ác và bí ẩn như cây mandrake, thậm chí còn tin rằng ăn khoai tây sẽ bị bệnh phong. Vì mọi người lo ngại khoai tây có độc nên họ còn gọi nó là "táo quỷ".
Trong quan điểm của người châu Âu thời đó, khoai tây là thuốc kích thích tình dục dùng để kích thích ham muốn tình dục (thật là một tin đồn kỳ lạ!), và không được phép ăn. Khi Shakespeare viết vở hài kịch The Merry Wives of Windsor, ông đã để cho tên quý tộc háo sắc, tham lam, khoác lác và nghèo đói Sir John Falstaff hét lên tại quán trọ Boar's Head: "Hãy làm mưa khoai tây đi!"
Khi khoai tây du nhập vào châu Âu, chúng đã phải chịu đủ mọi hiểu lầm từ mọi người và được lan truyền một cách rất thầm lặng.
Vào thế kỷ 18, Ireland nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Anh và phần lớn đất canh tác được kiểm soát bởi các địa chủ và quý tộc người Anh. Trên những cánh đồng và vùng đất hoang còn sót lại, những người nông dân Ireland đã phát hiện ra rằng khoai tây, một loại cây không hấp dẫn, có thể phát triển mạnh trong môi trường khắc nghiệt. Người Ireland nhanh chóng chấp nhận khoai tây và là những người đầu tiên bắt đầu trồng trọt trên quy mô lớn ở châu Âu. Khoai tây cũng được ca ngợi là "thực phẩm chủ yếu của người nghèo".
Các nghiên cứu sau này cho thấy khoai tây Chile thích nghi tốt hơn với khí hậu ngày dài của Ireland, phát triển tốt hơn và cho năng suất cao hơn. Vào thời điểm Darwin phát hiện ra khoai tây mọc tự do trên đảo Chiloé của Chile, hàng triệu người Ireland gần như sống hoàn toàn nhờ vào khoai tây Chile.
Van Gogh đã vẽ bức tranh Những người ăn khoai tây vào năm 1885 | WikimediaCommons
Sau đó, ngày càng nhiều quốc gia bắt đầu trồng khoai tây làm thực phẩm và cách chế biến khoai tây cũng dần được cải thiện. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều người yêu thích khoai tây, khoai tây cuối cùng đã trở thành một trong những loại thực phẩm phổ biến nhất ở châu Âu.
Việc trồng khoai tây trên diện rộng cuối cùng đã chấm dứt thời kỳ thiếu lương thực ở châu Âu. Khoai tây bắt đầu xuất hiện trên khắp thế giới. Việc thúc đẩy và trồng các loại cây trồng của Mỹ như khoai tây và khoai lang ở Trung Quốc cũng thúc đẩy sự gia tăng dân số trong thời kỳ thịnh vượng của Khang Hy và Càn Long dưới triều đại nhà Thanh.
Bệnh dịch hạch, nạn đói lớn
Vào những năm 1840, khi nhân loại dường như nhìn thấy hy vọng tạm biệt nạn đói, bệnh mốc sương khoai tây do nấm Phytophthora infestans gây ra đã bùng phát ở châu Âu.
Khoai tây bị nhiễm bệnh mốc sương | Howard F. Schwartz/Wikimedia Commons
Để đạt được năng suất cao trên diện tích đất cực kỳ hạn chế, người Ireland từ lâu đã trồng một giống khoai tây Chile duy nhất. Do thiếu sự đa dạng di truyền nghiêm trọng nên khoai tây đã bị tàn phá bởi bệnh mốc sương. Hàng triệu người Ireland chết vì đói và gần hai triệu người buộc phải di cư sang Hoa Kỳ và Úc.
Nạn đói lớn ở Ireland là thảm kịch kinh hoàng nhất trong lịch sử châu Âu. Vào thời điểm này, Darwin, người đang nghiên cứu và viết tại nhà riêng ở Anh, cũng rất đồng cảm với nỗi bất hạnh của người Ireland. Trong bốn mươi năm tiếp theo, ông đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu bệnh mốc sương ở khoai tây, tác động của sinh sản vô tính và hữu tính đến khả năng thích nghi của loài, và tài trợ cho một chương trình lai tạo khoai tây ở Ireland.
Một bức tượng ở Dublin, Ireland, tưởng nhớ các nạn nhân của nạn đói lớn. | Ron Cogswell / Wikimedia Commons
Bệnh mốc sương ở khoai tây cũng thúc đẩy đáng kể sự phát triển của miễn dịch học thực vật. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tại các vùng sản xuất khoai tây ở dãy núi Andes ở Nam Mỹ, người bản địa sẽ luân phiên trồng các giống khoai tây khác nhau trong cùng một khu vực, vì vậy ngay cả khi sâu bệnh xuất hiện, mùa màng cũng không bị phá hủy hoàn toàn.
Sự bùng phát của bệnh mốc sương ở khoai tây khiến con người lần đầu tiên nhận ra rằng an toàn mùa màng có tác động rất lớn đến toàn bộ xã hội loài người. Sau nhiều năm bị bệnh mốc sương, con người một lần nữa đưa các giống khoai tây Andes có tính đa dạng di truyền cao hơn từ Nam Mỹ vào, lai tạo chúng với các giống khoai tây Chile địa phương và cuối cùng đã lai tạo thành công các giống mới có khả năng thích nghi và kháng bệnh tốt hơn, và sản xuất khoai tây đã được phục hồi.
Khoai tây là món quà của thiên nhiên dành tặng cho loài người. Từ dãy núi Andes đến đảo Chiloé của Chile, chúng ta biết ơn người da đỏ Nam Mỹ đã trồng hàng nghìn giống khoai tây. Họ vẫn vô danh trong dòng sông lịch sử dài đằng đẵng, và nền văn minh huy hoàng mà họ từng tạo ra cũng đã bị phá hủy, nhưng nguồn gen mà họ đã nuôi dưỡng và truyền lại cho đến ngày nay cho phép chúng ta vẫn thưởng thức hương vị của khoai tây ngày nay.
Bạn có muốn ăn khoai tây nướng không? | Johan Jönsson (Julle)/ Wikimedia Commons
Bài viết này được trích từ Lịch loài, hoan nghênh chuyển tiếp