Trong số các loài lưỡng cư, ngoài "họ số một" Anura (ếch và cóc), nhóm thịnh vượng nhất là Caudata, bao gồm nhiều loại "thằn lằn" theo nghĩa rộng. Từ loài kỳ nhông phương Đông phổ biến đến loài kỳ nhông khổng lồ dài hơn 1,5 mét, Caudata được tìm thấy trên khắp vĩ độ trung bình và cao của Âu Á và Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Những loài động vật trơn nhẵn, ẩm ướt giống thằn lằn này có thể được tìm thấy trên bề mặt của các khu rừng ẩm ướt, trong các dòng suối trên núi, trong các mỏ tối và thậm chí trên cây.
Có nhiều loài Caudata ở Trung Quốc, nhiều loài trong số đó là loài đặc hữu của Trung Quốc. Vậy bạn có biết Caudata già nhất được biết đến ở Trung Quốc là ai không? Nhân vật chính của ngày hôm nay là Jeholotriton.
Mẫu hóa thạch kỳ lạ của loài kỳ nhông Jehol | Yuan Wang / Tạp chí Cổ sinh vật học Động vật có xương sống (2009)
"Em bé" cổ xưa
Hóa thạch của kỳ nhông Jehol được tìm thấy ở hệ tầng Daohugou tại thành phố Xích Phong, huyện Ninh Thành, Nội Mông, thuộc địa tầng giữa và cuối kỷ Jura cách đây 146 triệu năm. Năm 2000, Wang Yuan, một chuyên gia về động vật lưỡng cư tại Viện Cổ sinh vật học Động vật có xương sống và Cổ nhân chủng học, là người đầu tiên mô tả loài kỳ nhông Jehol và công bố nghiên cứu của mình trên Tạp chí Cổ sinh vật học Động vật có xương sống năm 2005.
Chỉ có một loài trong chi Jeholotriton: Jeholotriton paradoxus, trông giống với loài kỳ nhông hiện đại: hộp sọ rộng, phẳng, xốp, chân tay ngắn và đuôi dài. Nhưng nó cũng có nhiều đặc điểm độc đáo: nhiều loài lưỡng cư hiện có có răng trên xương lá mía ở hàm trên ngoài hàm trên và hàm dưới, giúp chúng dễ dàng giữ chặt con mồi trơn khi săn mồi và hỗ trợ việc nuốt. Răng vomerine của Jeholostegia mọc ở giữa bề mặt hàm, tạo thành phiến răng và có mỏm răng phía sau kéo dài về phía sau và chứa đầy răng. Xương cánh của hàm trên của kỳ giông Jehol không hướng về phía sau của hàm trên như các loài kỳ giông hiện có mà hướng về giữa bề mặt hàm. Chính những đặc điểm này của hộp sọ và răng đã mang lại cho loài này cái tên "strange".
Đầu lâu của Jehol Salamander | Yuan Wang / Tạp chí Cổ sinh vật học Động vật có xương sống (2009)
Đuôi của loài kỳ nhông Jehol dẹt về hai bên, cho thấy đây là loài kỳ nhông chủ yếu sống dưới nước. Có những dải dài màu tối ở cả hai bên đầu của hóa thạch, đó là dấu vết của sự tồn tại của mang ngoài: giống như ếch, hầu hết các loài kỳ nhông cũng đẻ trứng và sinh sản dưới nước. Nòng nọc sống dưới nước có mang ngoài dạng lông vũ ở cả hai bên đầu, chúng dùng mang này để hấp thụ oxy hòa tan trong nước. Cũng giống như nòng nọc Anuran biến thái thành ếch và cóc, hầu hết ấu trùng có đuôi dần dần phát triển các chi và phổi, còn mang ngoài của chúng teo lại và biến mất.
Tuy nhiên, xét theo hóa thạch của kỳ nhông Jehol, đây không phải là một con non mà là một con trưởng thành hoàn toàn. Tại sao kỳ nhông Jehol trưởng thành lại có mang ngoài như ấu trùng? Câu trả lời có thể được tìm thấy trong Caudata hiện có: khi môi trường thích hợp, một số loài kỳ giông không trải qua quá trình biến thái thành ấu trùng mà trực tiếp duy trì hình dạng ấu trùng và phát triển thành cá thể trưởng thành về mặt sinh dục.
Axolotl Mexico, vẫn giữ được mang lông vũ khi trưởng thành | Ảnh: Pixabay
Ví dụ, loài axolotl Mexico (thường được gọi là "khủng long sợi trục"), rất phổ biến trên thị trường thú cưng, chỉ rụng mang ngoài và biến thái thành động vật mới sinh trong những điều kiện rất cụ thể và khắc nghiệt. Hiện tượng này được gọi là sự ấu thơ. Việc phát hiện ra Jehol Salamander chứng minh rằng phương pháp phát triển kỳ lạ này đã xuất hiện ở loài lưỡng cư Caudata từ đầu kỷ Jura.
Thế giới sự sống của kỷ Jura
Loài kỳ nhông Jehol sống từ thời Callovian đến thời Oxfordian của kỷ Jura. Có lẽ chúng đã dành phần lớn cuộc đời mình ở các con sông và ao hồ trong rừng, bò và bơi chậm rãi dưới đáy nước để tìm kiếm thức ăn. Xét theo sự hiện diện của các loài chân khớp hình nhánh (một loại chân khớp sống ở vùng nước ngọt, thuộc bộ Conchostraca và rất thịnh vượng vào thời điểm đó) trong các chất chứa trong dạ dày được bảo quản trong các hóa thạch, thì kỳ nhông Jehol là loài ăn thịt giống như các loài kỳ nhông hiện có.
Chúng có thể có thị lực kém như các loài kỳ nhông sống dưới nước hiện tại, phải dựa vào khứu giác nhạy bén để tìm thức ăn ở đáy nước đục, hoặc nằm bất động gần các vật thể ẩn như đá và gỗ chìm, chờ con mồi bất cẩn rơi vào bẫy của chúng. Khi cá nhỏ (như cá sói Lycoptera phổ biến vào thời điểm đó), côn trùng thủy sinh và các động vật nhỏ khác xâm nhập vào phạm vi tấn công, kỳ nhông Jehol cũng có thể đột nhiên mở miệng giống như loài lưỡng cư Mexico và kỳ nhông bùn đốm hiện có, sử dụng lực hút tạo ra để hút con mồi vào miệng và nuốt chửng.
Cá sói | James St. John / Wikimedia Commons
Loài kỳ nhông Jehol không phải là loài có đuôi duy nhất trong hệ tầng Daohugou. Nó cũng cùng tồn tại với loài Chunerpeton tianyiensis. Giống như loài kỳ nhông Jehol, loài kỳ nhông Chunerpeton tianyiensis cũng có đặc điểm của giai đoạn ấu trùng, có thể là quá trình tiến hóa thích nghi của hai loài kỳ nhông này với cùng một môi trường sống. Cả kỳ nhông Jehol và Protosaurus đều nằm ở gốc của cây tiến hóa Caudata và là "tiền thân" của tất cả các loài kỳ nhông hiện có.
Tianyi Chusaur, từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Bắc Kinh | Bjoertvedt / Wikimedia Commons
Vào thời đó cũng có một loài động vật lạ sống ở vùng nước ngọt: Castorocauda lutrasimilis, một loài thú có đuôi gấu trúc hình rái cá thuộc bộ Mammaliaformes đã tuyệt chủng. Đây là họ hàng xa xưa của động vật có vú hiện đại nhưng không phải là tổ tiên trực tiếp. Loài hải ly đuôi rái cá này có chân có màng, đuôi phẳng giống như đuôi hải ly và răng sắc nhọn giống như răng hải cẩu. Thức ăn chủ yếu của loài này là cá và các động vật có xương sống nhỏ khác sống ở vùng nước ngọt. Có lẽ đây là kẻ thù tự nhiên đáng gờm nhất của loài kỳ nhông Jehol và động vật nguyên sinh.
Tái tạo hình dạng của loài gấu mèo | Nobu Tamura / Wikimedia Commons
Hơn 100 triệu năm đã trôi qua kể từ kỷ Jura. Ngày nay, có ít nhất 85 loài lưỡng cư Caudata sinh sống ở Trung Quốc. Những loài động vật nhỏ này có làn da nhạy cảm và mỏng manh, khả năng di cư yếu và phụ thuộc rất nhiều vào môi trường sống nhỏ bé mà chúng dựa vào để tồn tại. Chúng đặc biệt dễ bị tổn thương trước các yếu tố bất lợi như lạm dụng thuốc trừ sâu và phân bón, ô nhiễm nước, phá hủy môi trường sống, sự xâm lấn của các loài ngoại lai và biến đổi khí hậu. Hiện nay, nhiều loài Caudata độc đáo chỉ có ở Trung Quốc, như loài kỳ nhông Zhenhai Acanthus và loài kỳ nhông khổng lồ Nam Trung Quốc, đang trong tình trạng nguy cấp và bên bờ vực tuyệt chủng. Loài kỳ nhông Dianchi vốn đông đảo trước đây đã biến mất khỏi trái đất mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể biết đến sinh vật thú vị này thông qua các mẫu vật ngâm trong cồn. Tương lai của những loài động vật nhỏ bé, độc đáo nhưng mong manh này vẫn nằm trong tay con người.
Bài viết này được trích từ Lịch loài, hoan nghênh chuyển tiếp