Cá chép được đề cập ở đây, còn gọi là cá chép châu Á, không chỉ giới hạn ở một loại cá chép thường được nhắc đến ở nước ta (xem hình bên dưới), mà là thuật ngữ chung cho toàn bộ "họ cá chép châu Á", bao gồm các loại cá nuôi nước ngọt phổ biến ở Trung Quốc - cá chép bạc, cá chép đen, cá chép đầu to và cá chép.
Cá chép nhảy qua cổng rồng
Cá chép châu Á có nhiều tên gọi khác nhau ở Trung Quốc. Ví dụ, cá chép bạc còn được gọi là cá chép trắng và cá chép nhảy; cá trắm đen còn gọi là cá trắm cỏ và cá chép An Huy; cá chép đầu to còn gọi là cá chép hoa, cá chép đầu to; Cá chép còn được gọi là cá chép vàng, cá chép đỏ và cá chép lông.
Những loài cá này luôn sống tự do ở vùng biển Trung Quốc và Châu Á. Con người đã thử mọi cách có thể để nuôi dưỡng và bảo vệ chúng, để có thể bảo tồn một số lượng nhất định để con người có thể thưởng thức lâu dài. Có một truyền thuyết cổ xưa về một con cá chép nhảy qua Cổng Rồng. Người ta nói rằng khi cá chép nhảy qua Cổng Rồng, nó sẽ biến thành rồng thật, cưỡi mây và bay lên trời để trở thành tiên.
Trên thực tế, tất nhiên là không có cổng rồng nào để nhảy qua, nhưng vào thế kỷ trước, người ta từng coi việc du học ở Hoa Kỳ là nhảy qua cổng rồng. Vào thời điểm đó, một đàn cá chép cũng đã đi đến Hoa Kỳ. Họ được người Mỹ mời với tư cách là khách VIP. Học tập ở các con sông và hồ nước Mỹ có thể được coi như một bước nhảy qua cánh cổng rồng.
Tại sao người Mỹ lại mời cá chép châu Á làm khách?
Hóa ra vào những năm 1960, ngành nuôi trồng thủy sản ở Hoa Kỳ đã gặp phải một vấn đề, đó là sự phát triển mạnh mẽ của các loại thực vật thủy sinh như tảo. Lúc đầu, các cơ quan liên quan của Hoa Kỳ muốn tìm ra một loại hóa chất có thể tiêu diệt những sinh vật này càng sớm càng tốt, nhưng một số chuyên gia lại đề xuất sử dụng các phương pháp kiểm soát sinh học để giải quyết vấn đề theo cách thân thiện hơn với môi trường.
Do đó, Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã đề xuất đưa cá chép châu Á vào. Bởi vì theo nghiên cứu của các chuyên gia, loài cá chép châu Á này về cơ bản có một đặc điểm chung, đó là chúng mỗi ngày đều tiêu thụ lượng thức ăn là thực vật thủy sinh, thực vật phù du hoặc ngao và các sinh vật khác tương đương khoảng 40% trọng lượng cơ thể của chúng, đồng thời có khả năng thích nghi mạnh với môi trường. Sự xuất hiện của họ chắc chắn có thể hoàn thành nhiệm vụ dọn sạch những loài tảo có hại đó.
Hơn nữa, vì cá chép châu Á là món ăn ngon ở các nước châu Á nên việc giới thiệu chúng về đất nước này cũng có thể làm phong phú thêm bàn ăn của người Mỹ. Thực tế là người Mỹ cũng gặp phải vấn đề đánh bắt quá mức cá địa phương, dẫn đến tình trạng giảm trữ lượng cá và thiếu hụt nguồn cung. Loài cá chép châu Á này có bản tính hiền lành và không ăn cá địa phương. Sự xuất hiện của chúng có thể bù đắp cho tình trạng thiếu hụt cá địa phương và mang đến cho mọi người nhiều món ăn ngon hơn. Đây là một mũi tên trúng hai đích. Tại sao lại không làm thế?
Lý tưởng thì phong phú, nhưng hiện thực thì khắc nghiệt
Ý tưởng này rất hay và được chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ, họ đã phê duyệt kế hoạch và gọi đây là "Chương trình giới thiệu tài năng cá chuyên nghiệp". Vì thế, loài cá chép này được giới thiệu là “cá tài năng”. Tôi nói những chú cá chép châu Á này được mời đến như những vị khách VIP và chúng nhảy qua cổng rồng là hoàn toàn đúng.
Vì vậy, những con cá chép châu Á này đã đến Hoa Kỳ với số lượng lớn "với thị thực hợp pháp". Những "tài năng cá" này hoàn toàn không làm thất vọng sự mong đợi của chính phủ Hoa Kỳ. Chúng ngoan ngoãn ở lại ao cá của nhiều trang trại tại Hoa Kỳ, làm việc chăm chỉ và hiệu quả trong việc loại bỏ các loại tảo có hại.
Thật không may, trái với kỳ vọng của chính phủ, lý tưởng làm giàu cho bàn ăn của người dân thì rất cao cả, nhưng thực tế lại rất ảm đạm, và kế hoạch đã thất bại. Bởi vì người Mỹ không thích loại cá chép này và họ không ăn chúng. Tất nhiên đây là niềm vui lớn đối với loài cá chép, nhưng lại trở thành mối lo ngại lớn đối với chính phủ Hoa Kỳ.
Cùng với mực nước dâng cao và đủ loại tai nạn, những chú cá chép không có việc gì làm sau khi hoàn thành công việc đã liên tục trốn thoát khỏi các ao cá, tràn vào các con sông và hồ trên khắp nước Mỹ, dần dần trở thành trùm của các con sông và hồ.
Tại sao người Mỹ không thích ăn cá chép?
Phong cách ăn uống và thói quen của các nước châu Âu và châu Mỹ hoàn toàn khác biệt so với châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Sự khác biệt chính là: 1. Phương pháp chế biến của họ tương đối đơn giản và họ thường sử dụng phương pháp nấu ăn để giữ nguyên hương vị ban đầu của nguyên liệu; 2. Từ nhỏ, chúng đã ăn nhiều cá lớn và cá biển, hiếm khi ăn cá nước ngọt có nhiều xương. Chúng không có thói quen nhổ xương, đặc biệt là xương nhỏ.
Điều này gây ra một số vấn đề: Đầu tiên, cá chép Á có mùi bùn rất nồng. Ở Trung Quốc, có nhiều cách chế biến món này, bao gồm chiên, hầm, xào và sử dụng nhiều loại gia vị khác nhau như ớt, gừng, tỏi, hạt tiêu, hạt tiêu Tứ Xuyên, v.v., tạo nên hương vị rất nồng. Nó không chỉ át đi mùi bùn đất mà còn trở thành món ăn ngon với hương vị biến đổi liên tục, chua, cay, tươi mới. Tuy nhiên, khi các đầu bếp người Mỹ chế biến nó theo phương pháp của Mỹ, nó lại trở thành một đống hỗn tạp có mùi hôi và khó ăn.
Bằng cách này, những người quen ăn cá biển lớn sẽ không chọn ăn một đống đồ có mùi hôi thối và khó ăn như vậy nữa.
Thứ hai, người Trung Quốc đã học cách ăn cá nước ngọt từ khi còn nhỏ. Bạn thấy đấy, một số trẻ em từ khi còn rất nhỏ đã cắn một miếng cá nước ngọt, khuấy đều bằng miệng và lưỡi, bỏ thịt cá và nhổ xương ra, rồi chép môi khi thưởng thức hương vị. Tuy nhiên, người Mỹ sử dụng dao, nĩa và chỉ biết ăn thịt không xương thành từng miếng lớn. Khi họ đưa miếng thịt cá đầy xương vào miệng, họ không biết làm sao để lấy xương ra, và nếu không cẩn thận, họ có thể bị xương kẹt trong miệng, lưỡi và cổ họng, phải đến bệnh viện để phẫu thuật lấy xương ra.
Nếu đầu bếp loại bỏ từng xương một trong khi nấu, thịt cá sẽ bị nhão và chỉ có thể chế biến thành những viên cá. Hơn nữa, giá của nghệ nhân già rất cao, giá để chế biến một con cá như thế này cũng cực kỳ cao. Họ sẽ cảm thấy thật ngu ngốc khi phải tốn nhiều tiền để tiêu thụ thứ bùn và tanh này, đúng không?
Theo cách này, ít người ở Hoa Kỳ quan tâm đến cá chép châu Á và những con cá chép này có thể tự do di chuyển và sinh sản ở khắp mọi nơi mà không phải lo lắng gì.
Không có kẻ thù tự nhiên, loài cá chép được nghiên cứu ở nước ngoài đã sinh sản quá mức, trở thành thảm họa.
Chính phủ Hoa Kỳ có ý định tốt khi đưa cá chép vào nuôi, nhưng kết quả lại khiến họ đau đầu. Mời khách thì dễ nhưng tiễn khách thì khó. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, những chú cá chép này không chỉ ở lại mà còn được hưởng tình yêu tự do ở một đất nước tự do, không có bất kỳ hạn chế nào về kế hoạch hóa gia đình. Kết quả là, họ làm việc chăm chỉ để sinh nhiều con cháu, chiếm đóng toàn bộ vùng nước ngọt và thống trị thế giới.
Ở Trung Quốc và các nước châu Á khác, loài cá chép này có kẻ thù tự nhiên và kẻ thù lớn nhất chính là con người. Người dân châu Á thích ăn cá nước ngọt và họ tìm đủ mọi cách để chiên, xào và rán những con cá chép này, khiến chúng trở nên cực kỳ ngon và mọi người không bao giờ chán khi ăn chúng. Do đó, loài cá này rất khó sinh sôi ở châu Á và thường xuyên xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cung.
Ở Hoa Kỳ, kẻ thù tự nhiên không muốn chạm vào những con cá chép này, vì vậy bản chất của chúng được giải phóng hoàn toàn và chúng phải làm việc chăm chỉ để đẻ trứng. Một con cá chép cái có thể đẻ hàng trăm nghìn đến hàng triệu trứng cùng một lúc, thậm chí có thể lên tới 5 triệu trứng cùng một lúc, do đó chúng sinh sản rất nhanh. Đến những năm 1980, cá chép châu Á có thể được tìm thấy ở các con sông và hồ lớn trên khắp Hoa Kỳ.
Chính phủ Hoa Kỳ đã từng cố gắng chặn Ngũ Đại Hồ bằng một mạng lưới điện phòng thủ nhằm ngăn chặn sự lây lan của cá chép, nhưng nỗ lực này đã sớm thất bại. Sau đó, người ta đã cố gắng sử dụng một số chất độc hóa học để giết những "anh hùng" trước đây này, nhưng hầu hết những con cá bị đầu độc đều là cá địa phương, trong khi cá chép dường như không hề hấn gì.
Kết quả là, loài cá chép này ngày càng nhiều và lớn hơn, có con nặng tới hàng chục, thậm chí hàng trăm kilôgam. Sự sinh sôi của loài cá chép này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái địa phương. Mặc dù chúng không ăn cá địa phương, nhưng chúng đã vắt kiệt nguồn thức ăn và không gian sống của cá địa phương, khiến số lượng cá địa phương ngày càng ít, tạo thành tình trạng “chim sẻ chiếm tổ chim bồ câu”, khiến chuỗi sinh thái địa phương bị phá vỡ.
Có cách nào để xóa bỏ thảm họa sinh thái xâm lấn của các loài này không?
Hoa Kỳ cũng đã cố gắng giới thiệu người châu Á hoặc Trung Quốc đến đánh bắt loại cá này và sau đó bán lại cho châu Á hoặc Trung Quốc, nhưng cách này không hiệu quả. Bởi vì người châu Á thích ăn cá nước ngọt tươi và sống. Cá chép đánh bắt từ châu Mỹ không còn tươi khi vận chuyển bằng đường biển. Tất cả đều bị đóng băng. Không nhiều người thích chúng và chi phí vận chuyển lại cao nên không hiệu quả về mặt chi phí.
Vậy có cách nào để kiểm soát hoàn toàn thảm họa sinh thái này không? Tôi không biết. Nhưng tôi tự hỏi, điều gì sẽ xảy ra nếu một ông trùm Trung Quốc đến Hoa Kỳ để xây dựng một số nhà máy đóng hộp cá? Câu cá chép ở đó là miễn phí và thậm chí có thể được chính phủ trợ cấp. Cá chép có thể chế biến thành loại cá đóng hộp thơm ngon và xuất khẩu trở lại châu Á, thời hạn sử dụng được đảm bảo hoàn toàn. Vậy, vấn đề này có thể giải quyết được không?
Xét theo cuộc xâm lược của cá chép châu Á tại Hoa Kỳ, thảm họa xâm lược sinh học có sức tàn phá rất lớn và khó có thể loại trừ. Đã có nhiều cuộc xâm lược sinh học trên thế giới và những bài học chúng ta rút ra được rất sâu sắc. Một số là sự xâm lược của thực vật, một số là sự xâm lược của động vật. Bởi vì một khi những loài thực vật và động vật này rời khỏi nơi chúng sinh sống ban đầu, kẻ thù tự nhiên và chuỗi sinh thái của chúng sẽ thay đổi, điều này chắc chắn sẽ gây ra tác động đáng kể đến chuỗi sinh thái địa phương.
Ví dụ, Trung Quốc đã bị xâm chiếm bởi nhiều loài như lục bình, bướm đêm và ốc sên châu Phi khổng lồ. Úc cũng bị thỏ, v.v. xâm chiếm, tất cả đều gây ảnh hưởng rất lớn đến hệ sinh thái địa phương và rất khó để diệt trừ và giải quyết.
Vì vậy, xâm lược sinh học là một sự kiện rất đáng sợ và to lớn. Hiện nay, tất cả các quốc gia đều kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu vật liệu sinh học, các sản phẩm tươi sống khi nhập và xuất cảnh phải được sàng lọc và kiểm dịch chặt chẽ, nhưng vẫn khó tránh khỏi sự xâm nhập sinh học. Trong tương lai, liệu con người có phải chịu một đòn tàn phá từ cuộc xâm lược sinh học không? Tôi không biết.
Bạn nghĩ sao? Chào mừng bạn đến thảo luận, cảm ơn bạn đã đọc.
Bản quyền thuộc về Space-Time Communication. Vi phạm và đạo văn là hành vi phi đạo đức. Xin hãy hiểu và hợp tác.