Hầu hết mọi người thậm chí còn không biết cách phát âm từ "䗴" (tíng), nhưng chúng đã từng là những sinh vật thịnh vượng và có mặt ở khắp các đại dương trên trái đất.
Rệp là một loại sinh vật đơn bào nhỏ sống ở đại dương vào thời kỳ Cổ sinh. Chúng thuộc bộ Aphidida của ngành Foraminifera. Có 13 siêu họ dưới họ này, với số lượng loài rất lớn. Chỉ riêng siêu họ Endothyracea đã có tới 290 họ. Chúng có kích thước rất nhỏ, vỏ được làm bằng canxit, thường chỉ dài 5-10 mm, loại nhỏ nhất dài dưới 1 mm và loại lớn nhất chỉ dài khoảng 5 cm. Tuy nhiên, một số loài có vỏ dài tới 14 cm, khiến chúng trở thành loài trùng lỗ lớn nhất từ trước đến nay.
Phần hóa thạch của một loài foraminifera | Strekeisen / Wikimedia Commons
"Trục chính" thịnh vượng của gia đình
Họ Anguidae lần đầu tiên xuất hiện vào giai đoạn Landavritian của thời kỳ Silurian sớm, cách đây 444 đến 426 triệu năm. Vào thời điểm đó, sự tuyệt chủng hàng loạt vào cuối kỷ Ordovic vừa mới kết thúc. Nhiệt độ toàn cầu tăng cao khiến các sông băng tan chảy và mực nước biển dâng cao. Các rạn san hô phát triển mạnh ở vùng biển nông ấm áp và nhiều nắng. Từ loài "Cũ" Cameroceras, có mai dài tới 9 mét và trông giống như một cột điện thoại biết bơi, cho đến "tiền thân cũ" Jamoytius của ngành Chordata, đủ loại động vật mới đã xuất hiện ở các đại dương kỷ Silur và thay thế quần thể động vật kỷ Ordovic đang suy tàn.
Vỏ của ban đầu là một cấu trúc xoắn ốc phẳng đơn giản, trong khi hình dáng của sau này lại đa dạng hơn. Hầu hết chúng đều có hình thoi nhẵn, dày ở giữa và sắc ở cả hai đầu. Bản dịch tiếng Trung của "" cũng bắt nguồn từ đây: vào năm 1829, Fischer de Waldheim đã đặt tên cho chi Fusulina, và gốc của nó là fusu có nghĩa là trục chính trong tiếng Hy Lạp; Ông Lý Tư Quang, người sáng lập ra ngành địa chất hiện đại ở nước tôi, đã thêm một bộ giun vào chữ "筳", ám chỉ "công cụ bằng tre dùng để quấn tơ trong nghề kéo sợi thời cổ đại", và tạo ra chữ Hán "", lần đầu tiên được sử dụng trong bài báo "Gia tộc Fusulina ở miền Bắc Trung Quốc" xuất bản năm 1934.
Chân dung của Lý Tư Quang, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Địa chất Trung Quốc | Tuchong Sáng Tạo
Đừng đánh giá thấp lớp vỏ canxit đơn giản của trùng lỗ. Một nghiên cứu năm 2017 cho thấy vỏ của trùng lỗ có cấu trúc nhiều lớp phức tạp khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử. Cấu trúc độc đáo này cho thấy bộ Foraminifera có thể cùng tồn tại với tảo đơn bào, vi khuẩn lam hoặc các vi sinh vật khác có thể quang hợp và tự cung cấp năng lượng thông qua quá trình quang hợp; "Kỹ năng độc đáo" này lần đầu tiên tiến hóa ở ngành Foraminifera có thể là bí quyết cho sự thịnh vượng liên tục của ngành foraminifera trong một thời gian dài.
Hóa thạch của họ Pseudocimidae, được lưu giữ tại Nhà tưởng niệm Li Siguang ở Hoàng Châu, tỉnh Hồ Bắc | Hoàng Thần Hải / Wikimedia Commons
Sự kiện tuyệt chủng vào cuối kỷ Landavrian đã xóa sổ 50% số loài bọ ba thùy và 80% số loài răng nón ở các đại dương trên thế giới. Tuy nhiên, chi này đã sống sót sau sự tuyệt chủng này. Không chỉ loài của chúng ngày càng thịnh vượng hơn theo thời gian và kích thước cơ thể ngày càng lớn hơn, mà hình dạng của chúng cũng trở nên đa dạng hơn: ngoài "mô hình cơ bản" hình thoi, còn có vỏ hình gương lồi, hình đĩa, hình cầu và hình trụ. Hóa thạch của bộ Triceratops đã được tìm thấy ở mọi châu lục trên thế giới ngoại trừ Nam Cực, điều này đủ để chúng ta thấy được sự thịnh vượng của chúng vào thời điểm đó. Người Yumu cũng sống sót qua hai sự kiện tuyệt chủng khác trong kỷ Silur và gia tộc này ngày càng trở nên thịnh vượng và quyền lực.
Một số hiểu biết về rắn gián vảy đen
Conodont không phải là đá mà là răng của loài cá nhỏ, không có hàm. Chúng là "họ hàng" của cá mút đá và cá mút đá hiện có, dài 1-40 cm, có thân hình mảnh khảnh, phân đốt và đối xứng hai bên, đôi mắt to và răng cưa sắc nhọn. Ở đại dương vào thời điểm đó, loài này chủ yếu ăn động vật phù du bao gồm cả bộ Eurycoma và đã từng rất thịnh vượng.
Răng nón | Derek EG Briggs / Wikimedia Commons
Một sự tuyệt chủng ngoạn mục
Đến thời kỳ Viscenian của kỷ Than đá cách đây 346,7-330,9 triệu năm, loài thằn lằn cá dưới đại dương đạt đến thời kỳ hoàng kim. So với kỷ Silur, đại dương thời kỳ Than đá sống động hơn và chứa nhiều "quái vật biển" thời tiền sử có hình dáng kỳ lạ.
Vào thời điểm đó, các loài động vật có xương sống lớn chính trong đại dương là nhiều loại cá sụn thuộc phân lớp Holocephalus, và đứng đầu chuỗi thức ăn dưới biển là Eugeneodontida được đại diện bởi loài cá mập răng kéo Edestu. Loài cá mập răng kéo lớn nhất dài hơn 20 feet, có hàm giống như kéo và răng cưa, khiến chúng trở thành loài săn mồi đáng sợ. "Những kẻ bảo thủ" của triều đại trước, chẳng hạn như bọ ba thùy, cũng chưa hề biến mất. Ở các đại dương vào thời điểm đó, Foraminifera chiếm cùng một hốc sinh thái như họ hàng foraminifera của chúng ngày nay. Là nền tảng của chuỗi thức ăn, chúng nuôi dưỡng vô số động vật biển ở mọi kích cỡ.
Helicoprion, một loài cá mập Eugenean có hàm răng xoắn kỳ lạ | James St. John / Flickr
Không có triều đại nào có thể thịnh vượng mãi mãi, và triều đại Yumu cũng không ngoại lệ. Vào cuối kỷ Permi, cách đây khoảng 251,9 triệu năm, một loạt các vụ phun trào dữ dội đã xảy ra tại các ngọn núi lửa ở nơi ngày nay là Siberia. Lượng lớn khí carbon dioxide thải ra từ hoạt động núi lửa đã dẫn đến biến đổi khí hậu nghiêm trọng, gây ra tình trạng nóng lên trên diện rộng, thiếu oxy và axit hóa đại dương toàn cầu. Những thay đổi như vậy chắc chắn sẽ gây tử vong cho các loài sinh vật phù du sống ở bề mặt đại dương, đặc biệt là các loài trùng lỗ như bộ Pseudocyptiaca, chúng lấy năng lượng thông qua quá trình quang hợp và có vỏ làm bằng canxi cacbonat.
Hóa thạch của một chi trong đá vôi | James St. John / Wikimedia Commons
Chúng gặp khó khăn trong việc hình thành vỏ trong nước biển có tính axit ngày càng cao và các vi sinh vật quang hợp cộng sinh của chúng cũng có thể thoát khỏi các mô cơ thể do nhiệt độ nước cao, giống như san hô đang bị tẩy trắng ngày nay do nhiệt độ nước biển cao. Một khi sinh vật phù du biển, đại diện là bộ Euphyllia, biến mất, sẽ giống như một tòa nhà cao tầng bị đào móng vậy. Các loài động vật ở cấp độ cao hơn của kim tự tháp thức ăn chắc chắn sẽ chết vì mất nguồn thức ăn.
Sự kiện tuyệt chủng cuối kỷ Permi là sự kiện tuyệt chủng nghiêm trọng nhất trong lịch sử sự sống trên Trái Đất. 81% sinh vật biển và 70% động vật có xương sống trên cạn đã biến mất khỏi Trái Đất mãi mãi, bao gồm cả loài cuối cùng. Bản giao hưởng tuyệt vời của cuộc sống đã kết thúc mãi mãi trong một thảm họa kinh hoàng và tàn khốc. Phải mất 3 đến 5 triệu năm, cho đến thời kỳ giữa kỷ Trias, sinh quyển của Trái Đất mới phục hồi được sức sống như trước thời kỳ tuyệt chủng hàng loạt.
Chân dung toàn thân của Lý Tư Quang, chụp tại Đại học Trùng Khánh | Tuchong Sáng Tạo
Ngày nay, ở các đại dương trên thế giới vẫn còn tồn tại một số lượng lớn trùng lỗ. Giống như bộ Anapsid đã tuyệt chủng, chúng có kích thước nhỏ bé nhưng số lượng lại đông đảo. Là nền tảng của kim tự tháp thức ăn dưới biển, chúng nuôi dưỡng vô số động vật biển, từ đàn cá đông đúc đến những chú cá voi khổng lồ. Tuy nhiên, giống như cá đối, chúng rất nhạy cảm với những thay đổi nhỏ về nhiệt độ và độ pH của nước biển, và đặc biệt dễ bị tổn thương trước những thay đổi khí hậu nghiêm trọng xảy ra trong thời gian ngắn. Ngày nay, khi biến đổi khí hậu đã trở thành thách thức nghiêm trọng đối với toàn nhân loại, việc nhìn lại quá trình trỗi dậy và sụp đổ của người Yumu có thể mang lại cho chúng ta chút cảm hứng khi phải đối mặt với tương lai ngày càng bất định.