Các gia đình vui lòng nhập "Bảo vệ người thân" trên màn hình công cộng Các gia đình vui lòng nhập "Bảo vệ người thân" trên màn hình công cộng

Các gia đình vui lòng nhập "Bảo vệ người thân" trên màn hình công cộng

Sản xuất bởi: Science Popularization China

Sản xuất bởi: Luan Miaomiao (Viện Đổi mới Sinh thái, Đại học Lan Châu)

Nhà sản xuất: Trung tâm thông tin mạng máy tính, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc

Động vật linh trưởng là hình ảnh phản chiếu của con người trong thế giới động vật và chúng là loài động vật gần gũi nhất với con người. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, sự tồn tại của các loài linh trưởng đang bị thách thức nghiêm trọng và cần phải tìm ra những ý tưởng và phương pháp mới để bảo vệ chúng tốt hơn.

Họ hàng gần nhất của loài người: Loài linh trưởng thích phát tán hạt giống

Trong phân loại sinh học, con người và động vật linh trưởng thuộc cùng một họ - Hominidae. Lấy tinh tinh làm ví dụ, sự khác biệt giữa chúng ta và tinh tinh trong bộ gen chỉ khoảng 1%, điều đó có nghĩa là quần thể người và tinh tinh có chung khoảng 99% gen, điều này cũng khiến chúng giống với con người trong nhiều hành vi như biểu hiện và nhận thức.

Ví dụ, khi tinh tinh gặp một đàn khỉ đầu chó, chúng sẽ nhặt đá trên mặt đất và ném vào lũ khỉ đầu chó, trong khi la hét và dậm chân. Mục đích của họ là xua đuổi lũ khỉ đầu chó bằng cách đe dọa. Điều này hoàn toàn giống với hành vi ném đá của con người để đe dọa khi bị một bầy chó tấn công.

Ngoài ra, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tinh tinh, giống như con người, có khả năng nhận biết ba màu cơ bản và những con tinh tinh được huấn luyện thậm chí còn vượt xa con người trưởng thành về khả năng ghi nhớ ngắn hạn.

Tinh tinh, một trong những họ hàng gần nhất của con người (Nguồn ảnh: Veer Gallery)

Không chỉ vậy, loài linh trưởng còn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, chẳng hạn như phát tán hạt giống để duy trì sự tái sinh của rừng.

Động vật linh trưởng phát tán hạt theo ba cách chính. Trong đó, con đường quan trọng nhất là truyền qua đường tiêu hóa, tức là động vật nuốt hạt rồi bài tiết ra ngoài, góp phần vào sự sinh sản của thực vật theo con đường “có hương vị” này. Đồng thời, các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy một số loài linh trưởng thuộc họ Gigoloderma sẽ vứt bỏ hạt sau khi ăn phần cùi. Phương pháp "ăn và ném" này cũng có thể đạt được mục đích phát tán hạt giống.

Điều đặc biệt là các loài linh trưởng thuộc chi Macaques và Cercopithecus tạm thời lưu trữ quả trong túi má khi ăn, và xử lý quả rồi nhả hạt ra ở một địa điểm cách xa cây ăn quả. Đây là một cách khác để loài linh trưởng phát tán hạt giống.

Tại sao hành động “thải hạt trái cây” có vẻ ngẫu nhiên này lại quan trọng đối với hệ sinh thái? Vì khỉ đuôi dài và khỉ rú có thể di chuyển ở những khu vực trống trải hoặc biệt lập mà các loài ăn quả không phải linh trưởng khác không thể sống được nên chúng thúc đẩy sự phát tán hạt giống và giúp phục hồi môi trường sống đã bị suy thoái cũng như diễn thế thứ cấp của rừng.

Khỉ Macaque (Nguồn ảnh: Veer Gallery)

Nguy hiểm nguy hiểm! Tình hình hiện tại của loài linh trưởng không mấy lạc quan

Tuy nhiên, sự tồn tại của những loài họ hàng gần của con người trong vương quốc động vật không mấy khả quan. Trên Trái Đất, sự sống còn của hơn 60% loài linh trưởng đang bị đe dọa và chúng phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Trung Quốc là nơi sinh sống của 27 loài linh trưởng, bao gồm cu li chậm, khỉ đuôi dài, khỉ lá, vượn, khỉ vàng, v.v. Trung Quốc rất coi trọng việc bảo vệ các loài linh trưởng và tất cả các loài linh trưởng đều là loài được bảo vệ cấp độ hai trở lên.

Tuy nhiên, mặc dù việc bảo vệ được coi trọng nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tác động của con người đến môi trường tự nhiên đã gián tiếp đe dọa đến sự tồn tại của các loài linh trưởng.

Gần đây, một bài báo có tựa đề "Đầu tư vào khoa học có thể giảm thiểu tác động tiêu cực của việc sử dụng đất đối với sự suy giảm quần thể linh trưởng" do nhóm nghiên cứu của Triệu Hiến Mậu tại Đại học Lan Châu công bố đã phân tích tác động của một số yếu tố đến những thay đổi về số lượng linh trưởng ở Trung Quốc từ năm 1980 đến năm 2015, bao gồm những thay đổi về việc sử dụng đất, mức độ nghèo đói trong môi trường sống của linh trưởng, sự gia tăng dân số, đầu tư khoa học của chính phủ vào việc bảo vệ linh trưởng và sự quan tâm của công chúng. Kết quả cho thấy trong số 21 loài linh trưởng hiện có ở Trung Quốc, 16 loài (chiếm 76%) đã trải qua tình trạng suy giảm quần thể trong quá khứ.

Mô hình phương trình cấu trúc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến những thay đổi trong quần thể linh trưởng cho thấy NSFC (Quỹ Khoa học Tự nhiên Trung Quốc) và PA (số khu bảo tồn linh trưởng) có mối tương quan tích cực với những thay đổi trong quần thể linh trưởng; Đất trồng trọt/đồng cỏ, tức là những thay đổi hàng năm về đất trồng trọt và đồng cỏ trên mỗi kilômét vuông, có mối tương quan tiêu cực với những thay đổi về quần thể linh trưởng; không có đủ bằng chứng thống kê về mối quan hệ giữa Lớp (mức độ bảo vệ của từng loài linh trưởng ở Trung Quốc), Baidu (số lần công chúng tìm kiếm tên khoa học và tên thường gọi của từng loài linh trưởng thông qua nền tảng Internet Baidu), Chăn thả (những thay đổi hàng năm về diện tích đồng cỏ trên mỗi kilômét vuông) và Dân số (những thay đổi hàng năm về mật độ dân số ở mỗi quận) và những thay đổi về dân số.

(Nguồn ảnh: https://doi.org/10.1002/ajp.23302)

Trong 40 năm qua, công tác bảo tồn các loài linh trưởng ở Trung Quốc đã phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, chủ yếu là do tác động của việc thay đổi mục đích sử dụng đất và tình trạng thu hẹp môi trường sống của linh trưởng do sự gia tăng dân số.

Nhiều loài linh trưởng sống trong các khu rừng nguyên sinh, chẳng hạn như vượn, và một khi rừng bị phá hủy, chúng sẽ mất nơi trú ngụ.

Điều còn khó khăn hơn nữa là vượn sẽ không chọn một ngôi nhà đã bị phá hủy nhưng được xây dựng lại. Sau khi một khu rừng bị chặt phá, ngay cả khi nó phục hồi sau 50 năm, vượn cũng sẽ không chọn đó làm môi trường sống chính của chúng. Đất nước tôi thực tế không thực hiện lệnh cấm khai thác gỗ cho đến cuối những năm 1990.

Gibbon (Nguồn ảnh: Veer Gallery)

Ngoài ra, mặc dù đất nước tôi hiện nay cấm chặt phá rừng tùy tiện, các hoạt động của con người xung quanh các khu bảo tồn như hái lượm, chăn thả và trồng trọt vẫn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các loài động vật trong khu bảo tồn, gây ra những tác động nghiêm trọng đến sự tồn tại và sinh sản của các loài linh trưởng.

Chúng ta nên làm gì để bảo vệ loài linh trưởng?

Trong việc bảo vệ động vật hoang dã, chúng tôi luôn nhấn mạnh đến việc giảm thiểu sự can thiệp của con người và cho chúng được sống trong trạng thái tự nhiên. Nhưng ngày nay, dấu chân con người xuất hiện ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới và nhiều khu vực nơi động vật hoang dã sinh sống không thể tránh khỏi bị xáo trộn.

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là mặc dù chúng ta thường nghe rằng các hoạt động của con người có thể dẫn đến sự hủy hoại môi trường sống của động vật hoang dã, làm suy giảm số lượng hoặc thậm chí là tuyệt chủng, nhưng các hoạt động của con người không gây ra tất cả các tác động tiêu cực đến động vật hoang dã.

Ngược lại, một số loài động vật hoang dã được bảo vệ tốt hơn thường sống trong các khu bảo tồn nhân tạo. Tính đến năm 2017, số lượng khu bảo tồn thiên nhiên ở nước tôi đã vượt quá 2.500, chiếm khoảng 15% diện tích đất liền của cả nước. Nó đã bảo vệ hiệu quả một số lượng lớn các loài động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng như gấu trúc khổng lồ, hổ Siberia và khỉ vàng. Đối với loài gấu trúc lớn, tính đến cuối năm 2013, số lượng gấu trúc lớn hoang dã đã vượt quá 1.800 và số lượng nuôi nhốt gần 400. Trong Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thế giới, mức độ đe dọa của quần thể gấu trúc lớn hoang dã đã thay đổi từ "nguy cấp" sang "dễ bị tổn thương". Điều này cho thấy các khu bảo tồn thiên nhiên của nước ta đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận trong việc bảo vệ đa dạng sinh học, có ý nghĩa to lớn.

Do đó, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu động vật hoang dã muốn tồn tại và sinh sản tốt hơn, chúng vẫn cần sự giúp đỡ của con người và thông qua sự bảo vệ của con người, cho phép loài linh trưởng và con người chung sống hòa thuận.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, hiện nay, khả năng bảo vệ vĩ mô vẫn còn hạn chế. Ngược lại, tình hình bảo tồn các loài động vật ít được quan tâm hơn, chẳng hạn như loài cu li chậm, vẫn còn ảm đạm.

Trước đây, người ta thường bắt vượn cáo chậm để làm thuốc, dẫn đến số lượng loài này giảm sút. Cu li chậm chủ yếu phân bố ở các khu vực rừng thuộc các huyện nghèo ở Vân Nam. Dân làng phá rừng và khai hoang đất hoang để kiếm sống, gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống của họ. Hiện nay, chỉ có một số lượng rất nhỏ cá thể được nhìn thấy ở phía tây và phía nam Vân Nam.

Cu li chậm (Nguồn ảnh: animals.net)

Ngoài ra, còn có một nhóm động vật linh trưởng, chẳng hạn như khỉ lá, hiếm khi nhận được sự quan tâm và sự sống sót của chúng rất đáng lo ngại. Trong nhiều năm qua, chúng liên tục bị săn bắt và khi chất lượng cũng như diện tích môi trường sống của chúng suy giảm, chúng đã trở thành loài linh trưởng quý hiếm.

Những loài này không nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng cũng như không có nghiên cứu khoa học liên quan nên đang phải đối mặt với tình trạng nguy cấp hơn. Đầu tiên, chúng ta không biết rõ thông tin cơ bản của họ; Thứ hai, chúng hiếm khi nhận được bất kỳ nguồn tài nguyên bảo tồn nào, vì vậy chúng rất cần được bảo vệ!

Langur (Nguồn ảnh: Veer Gallery)

Việc sử dụng đất đã thu hẹp nghiêm trọng không gian sống của các loài linh trưởng, nhưng việc thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và nâng cao nhận thức của công chúng về việc bảo vệ động vật hoang dã có thể làm giảm tác động tiêu cực của việc sử dụng đất đối với sự tồn tại của quần thể linh trưởng ở Trung Quốc.

Về mặt quốc gia, đất nước tôi rất coi trọng việc bảo vệ động vật hoang dã, nhiều lần nhấn mạnh rằng "nước xanh và núi xanh là tài sản vô giá" và thực hiện một loạt các biện pháp như "trả đất nông nghiệp cho rừng và đồng cỏ" để thúc đẩy xây dựng nền văn minh sinh thái và bảo vệ môi trường sống của động vật hoang dã.

Từ góc độ xã hội và cá nhân, mọi người sẽ không còn săn trộm hoặc ăn thịt động vật hoang dã chỉ để thỏa mãn sở thích bất hợp pháp và sự tò mò của mình. Các chính sách và luật liên quan đến bảo vệ động vật hoang dã cũng đã dần được hoàn thiện, mọi hành vi săn bắt và ăn thịt động vật hoang dã đều bị nghiêm trị.

Tất nhiên, nếu chúng ta muốn bảo vệ động vật hoang dã tốt hơn, chúng ta nên nâng cao hơn nữa nhận thức của cộng đồng về bảo vệ động vật hoang dã và tăng cường công tác tuyên truyền bảo vệ động vật hoang dã. Các sở, ban, ngành liên quan cũng cần hoàn thành trách nhiệm của mình, hoàn thiện các chính sách, pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã, xây dựng hệ thống bảo vệ động vật hoang dã toàn diện, đồng thời cung cấp chính sách và hỗ trợ tài chính liên quan để thúc đẩy hiệu quả tiến độ thực hiện các công tác bảo vệ động vật hoang dã.

Theo cách này, chúng ta có lý do để tin rằng thông qua sự quan tâm cao độ và những nỗ lực lâu dài trong việc bảo vệ động vật hoang dã, trong tương lai gần, động vật hoang dã chắc chắn sẽ cùng tồn tại hòa bình với con người. Cho dù là tinh tinh, khỉ vàng hay khỉ lá, động vật linh trưởng hoang dã, là một phần quan trọng của đa dạng sinh học, hỗ trợ hệ thống tự nhiên và duy trì sự cân bằng sinh thái ban đầu.

Bảo vệ người thân của chúng ta cũng chính là bảo vệ nhân loại.

Tài liệu tham khảo:

1. Mã Thế Lai, Vương Anh Tường. Phân bố, tình trạng hiện tại và bảo tồn các loài linh trưởng hiện đại ở Trung Quốc[J]. Acta Theriologica Sinica, 1988(04): 250-260.

2. Chen Yuan, Wang Zheng, Xiang Zuofu. Vai trò của loài linh trưởng trong việc phát tán hạt thực vật[J]. Khoa học đa dạng sinh học, 2017, 25(03): 325-331.

3. Suntsova, Maria., Buzdin, Anton. (2020). Sự khác biệt giữa bộ gen người và tinh tinh và ý nghĩa của chúng trong biểu hiện gen, chức năng protein và đặc tính sinh hóa của hai loài. Di truyền học BMC. 21. 535. 10.1186/s12864-020-06962-8.

4. avid, A, Hamburg. (1971). Hành vi hung dữ của tinh tinh và khỉ đầu chó trong môi trường sống tự nhiên. Tạp chí nghiên cứu tâm thần. Tập 8, Số 3–4, Trang 385-398. Mã số 0022-3956. https://doi.org/10.1016/0022-3956(71)90032-X.

5. Wu, Ruidong ., Possingham, Hugh., Yu, Quảng Trị ., Jin, Tong ., Wang, Junjun ., Yang, Feiling ., Liu, Shiliang ., Ma, Jianzhong., Liu, Xi ., Zhao, Haiwei. (2019). Tăng cường chiến lược đa dạng sinh học quốc gia của Trung Quốc để đạt được nền văn minh sinh thái. Thư bảo tồn. 12. e12660. 10.1111/số điện thoại 12660.

6. Xu, J., Zhang, Z., Liu, W., & McGowan, P. (2012). Tổng quan và đánh giá chính sách bảo tồn thiên nhiên ở Trung Quốc: Tiến bộ, thách thức và cơ hội. Tạp chí Bảo tồn Quốc tế, 46(4), 554-562. doi:10.1017/S0030605311000810

7. Pene, CHM., Muramatsu, A., Matsuzawa, T., (2020). Phân biệt màu sắc và sở thích màu sắc ở tinh tinh (Pan troglodytes). Động vật linh trưởng. 61(3):403-413. doi: 10.1007/s10329-020-00790-w.