Lần đầu tiên tôi biết đến tên của cây trúc mây là khi tôi thấy đoạn miêu tả trong "Sơn hải kinh: Trung Sơn kinh": "Trong Vân Sơn không có thực vật, nhưng lại có trúc mây, cực độc . Nếu ai bị thương thì sẽ chết ." Mặc dù tôi biết rằng rất khó để xác minh tính xác thực của "Sơn hải kinh" nhưng khi tôi thấy rằng thực sự có Phyllostachys bambusoides Sieb. và Zucc. thuộc chi Phyllostachys (Phyllostachys), tôi vẫn rất tò mò về nơi mà "chất độc" của loài tre này nằm? Sau đó tôi thấy có lời giải thích: "Nó sắc đến mức có thể đâm hổ, nếu bị đánh trúng thì sẽ chết", điều này chứng tỏ loại tre này rất cứng. "Rất độc" chủ yếu ám chỉ tính phù hợp của nó trong việc chế tạo vũ khí gây chết người và nó có lịch sử lâu dài trong việc được con người chế biến và sử dụng.
Quý Châu | Marco Schmidt/Wikimedia Commons
Atlas of Chinese Bamboo Plants liệt kê nhiều tên gọi khác nhau của Pleioblastus, chẳng hạn như tre tháng Năm, tre vàng lúa mì, tre què, tre cứng, tre đầu thép, osmanthus đầu thối, tre đắng và tre mũi tên. Tuy nhiên, hai tên gọi sau dễ bị nhầm lẫn với các chi gốc Pleioblastus và Fargesia. Là một trong những loài tre gỗ phân bố rộng rãi nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà và phía Nam, loài cây này gắn liền chặt chẽ với cuộc sống của con người từ thời xa xưa.
"Cây tre đầu sắt" không phải là "đầu sắt"
Đối với hầu hết mọi người, việc phân biệt ba bộ, khoảng 123 chi và hơn 1.400 loài tre trên thế giới thực sự là quá khó khăn. Loài Kaempferia rapa phù hợp với hiểu biết cơ bản của mọi người về tre: thân cây thường cao 11-20 mét, đường kính 8-10 cm, cao và cứng, có cành và lá xanh, xào xạc trong gió. Lá ở phần trên của cây tre tươi tốt và rậm rạp, người xưa mô tả một cách sinh động là "rậm rạp ở phía trên để ngăn sương, thưa ở phía dưới để gió lùa vào".
Mỗi đốt ở phần trên của thân tre có hai nhánh, vòng thân và vòng bẹ của mỗi đốt được nâng lên (mỗi đốt của thân tre có hai vòng rất gần nhau, vòng trên gọi là "vòng thân", vòng dưới gọi là "vòng bẹ", giữa hai dấu vòng có vách ngăn ngang bằng gỗ). Ngoài ra, bề mặt thân tre của loài Phyllostachys pubescens mới mọc không có "lông" và bột trắng (lớp sáp do tế bào tiết ra) như thân tre của loài Phyllostachys moso nên có thể nhận biết bằng đặc điểm này.
Khớp tre nâng cao | Xanh lá cây / Wikimedia Commons
Người xưa đã từng tóm tắt công dụng của tre như sau: "măng làm thực phẩm, ngói làm nhà, bè tre làm phương tiện di chuyển, củi tre để nấu ăn, da tre làm quần áo, giấy tre để viết, giày tre để đi". Ngoại trừ việc măng có vị đắng và có thể không thích hợp để ăn, măng có thể được sử dụng cho các mục đích khác . Mầm tre Phyllostachys guilinensis mọc vào khoảng tháng 5 âm lịch khi lúa mì chín, muộn hơn so với các loại tre khác. Phần ngọn dễ bị sâu bệnh phá hoại nên còn có biệt danh là “quế lâm đầu thối”. Tên gọi “tre vàng lúa mì” cũng bắt nguồn từ thời điểm chồi cây phát triển.
Trong số tất cả các loài tre được phát hiện cho đến nay, Phyllostachys rapa có khoảng thời gian ra hoa dài nhất, khoảng 130 năm . Các quan sát đã phát hiện ra rằng khi đến mùa ra hoa của tre, cùng một loài tre, bất kể khoảng cách địa lý hay điều kiện khí hậu, sẽ nở hoa, kết trái và sau đó chết cùng một lúc . Nguyên lý của hiện tượng này vẫn chưa được xác định.
Măng được bán ở Nhật Bản | Uo3rt / Wikimedia Commons
Mẹo của cô gái lịch
Lịch Bà: Chu kỳ ra hoa của cây tre là 130 năm (một số người nói là 120 năm). Điều này không có nghĩa là cây tre sẽ nở hoa, tạo hạt và chết khi đạt 130 tuổi. Trên thực tế, tuổi thọ trung bình của thân ngầm của cây Phyllostachys cinnamomi chỉ là 10 năm . Khi thời kỳ ra hoa kéo dài 130 năm đến, tất cả các cây tre, bất kể tuổi tác, đều nở hoa cùng nhau. Tất nhiên, có nhiều cây tre không bao giờ bắt kịp thời kỳ ra hoa này trong suốt cuộc đời của chúng. Điều thú vị là cây tre được cấy ghép ở nước ngoài , chẳng hạn như ở Anh và Nhật Bản, cũng tuân theo chu kỳ ra hoa 130 năm này , điều đó có nghĩa là mọi người trên khắp thế giới đều có cùng một chu kỳ ra hoa.
Vì tre ra hoa và kết trái rất hiếm nên thời xưa người ta thường coi chúng là điềm xấu. Sách Thái Bình Quảng Ký ghi chép về việc cây trúc ra quả trong thời kỳ hạn hán thời nhà Đường: Năm Gia Tử thời nhà Đường, có một trận hạn hán nghiêm trọng trong phạm vi hàng ngàn dặm. Đột nhiên, những cây tre trên núi bắt đầu kết hạt , và những người dân đói khát đã dựa vào chúng để kiếm sống , cứu sống vô số người. Những cây tre ở hàng ngàn lối đi và thung lũng sau đó héo úa và chết. Những người có thức ăn ở nhà và không nghèo sẽ nôn mửa và bị ngộ độc sau khi ăn. Cơm tre không có độc. Có lẽ truyền thuyết tạo ra màu sắc bí ẩn cho nó để nhấn mạnh rằng "đây là thức ăn giúp người đói giải cơn đói".
Trong thư gửi cho người bạn Vương Tuấn Tuyền, Tô Thức viết: "Tôi có một chiếc kiệu trúc tím, nhưng không có cột trụ. Tôi muốn xin hai cây nguyệt quế nhỏ đã qua thời tiết và chịu được sương giá." Điều này cho thấy cây nguyệt quế được sử dụng rộng rãi như thế nào. Bức tranh mô tả chiếc kiệu trong "Dọc bờ sông trong lễ hội Thanh Minh" | WikimediaCommons
Thật khó để vẽ họa tiết mai rùa.
Vào thời đại mà "BBS" còn thịnh hành, "banzhu" (đồng âm với người điều hành) từng là một từ thời thượng, nhưng giờ đây nó đã biến mất khỏi sân khấu lịch sử giống như "偶呮繜个伝説". Trước đó, hiểu biết của mọi người về “banzhu” chủ yếu đến từ Tiểu Tường Các trong Hồng Lâu Mộng, “có đuôi phượng rậm rạp, tiếng rồng gầm yếu ớt, hàng ngàn cây trúc xanh tạo bóng”.
Tre đốm (P. bambusoides f. lacrima-deae Keng f.et Wen) là một biến thể của Phyllostachys laurelii. Đặc điểm nổi bật nhất của nó là những đốm màu nâu tím trên thân và cành. Từ lâu, đây đã là một loại tre cảnh nổi tiếng. Người xưa còn kết hợp với truyền thuyết về nữ thần sông Tương: " Hai người con gái của Nghiêu và hai phi tần của Thuấn được gọi là Hương cung. Khi hoàng đế băng hà, hai phi tần khóc lóc, lấy nước mắt vẩy lên cây trúc, cây trúc liền thành đốm". Vì vậy, những tên gọi khác của cây trúc đốm thường liên quan đến câu chuyện về Ehuang và Nvying. "Tương Phi Trúc" và "Xé Trúc" đều xuất phát từ đây. Tên gọi của các đồ dùng làm bằng trúc đốm cũng thường liên quan đến “sông Tương”, như tẩu Tương, rèm Tương, chiếu Tương, v.v.
Tre | Trang trại / Wikimedia Commons
Hình ảnh trúc đốm trong thơ rất buồn và đẹp: “Tơ băng tằm đứt, ngọc đứt, trúc Hương Phi chết, trời xanh nứt”, “Bóng Hằng Nga đứt, sương giá lạnh, hoàng tử không dấu vết, trúc đẫm lệ”. Những vết rách trên cây tre loang lổ cũng gợi nhớ đến " Tiểu Hương Phi ", biệt danh của Lâm Đại Ngọc trong "Hồng Lâu Mộng", và "Giang Trúc Tiên Thảo", tiền thân của "Hoàn Lệ".
Suy đoán về "Ngàn mẫu tre ở Weichuan" và "Tre ở Qiyuan"
Phyllostachys laurelii là một loại tre có khả năng chịu lạnh tuyệt vời. Viện Lâm nghiệp Sơn Đông đã từng tiến hành thống kê và đánh giá toàn diện về khả năng chịu lạnh và tỷ lệ sống sót của 31 loài trúc cảnh được trồng tại Tế Nam và Uy Hải từ năm 2014 đến năm 2015, trong đó Phyllostachys laurelii xếp hạng nhất.
Ở Trung Quốc cổ đại, lưu vực sông Vị và lưu vực sông Kỳ ở phía bắc là những khu vực sản xuất tre quan trọng. Mặc dù không có ghi chép rõ ràng về loài tre, nhưng có khả năng loài tre chính là Phyllostachys laurelii. "Sử ký" chép rằng: " Vị Xuyên có hàng ngàn mẫu trúc trúc , người này ngang hàng với một hầu tước ngàn hộ." "Kinh Thi" cũng bắt đầu bằng câu "Hãy nhìn bờ sông Kỳ, bạn sẽ thấy những rặng tre xanh tươi". Từ thời nhà Hán đến nhà Đường, các triều đại kế tiếp nhau đã thiết lập một "Vườn Tứ Trúc" đặc biệt ở Trác Chi (nay là Chu Chỉ, Thiểm Tây) gần sông Vị.
Một biến thể khác của tre osmanthus, P. bambusoides var.castillonis (Marliace x Carriere) Makino, còn được gọi là "Golden Jasper", cũng là một loại tre cảnh phổ biến. Đặc điểm của nó là thân tre có màu vàng kim, giữa các đốt tre và một bên cành tre có nhiều sọc dọc màu xanh lục | Ảnh: Pixabay
Những cây tre được trồng ở lưu vực sông Qishui thậm chí còn nổi tiếng hơn trong lịch sử. Khi Hán Vũ Đế ra lệnh cho Cơ Nhân và Quách Xương kiểm soát sông Hổ Tử, một nhánh của sông Hoàng Hà, "họ chặt tre ở Tề Nguyên làm then cửa", nghĩa là họ chặt tre ở Tề Nguyên để chặn chỗ vỡ của dòng sông. Khấu Tuân, một vị tướng thời Đông Hán, đã từng ra lệnh cho người dân chặt hàng triệu mũi tên từ những cây tre ven sông Thất Thủy, "chặt tre ở sông Thất Xuyên, thu được hơn một triệu mũi tên để vận chuyển quân nhu", điều này cho thấy rừng tre phong phú đến mức nào. Sau đó, với sự xuất hiện của một số kỷ băng hà nhỏ trong lịch sử, khí hậu và môi trường bị ảnh hưởng ở nhiều mặt và các khu vực sản xuất tre dần dần dịch chuyển về phía nam. Ngày nay , không dễ để nhìn thấy những khu rừng tre tự nhiên tươi tốt ở phía bắc sông Hoàng Hà, và chỉ còn lại một số địa danh liên quan đến tre.
Roi tre Kuebi | Kuebi/Wikimedia Commons
Bài viết này được trích từ Lịch loài, hoan nghênh chuyển tiếp