*Cuối bài viết có danh sách các đền thờ thành hoàng đáng tham quan ở Trung Quốc
Nếu bạn đột nhiên du hành ngược về thời cổ đại, làm sao bạn có thể xác định được khu vực thịnh vượng nhất trong thành phố?
Nếu bạn chắc chắn đã đến thời nhà Minh và nhà Thanh thì bạn sẽ không bao giờ sai lầm khi đến thăm khu vực Đền Thành Hoàng !
Là trung tâm văn hóa đô thị thời bấy giờ, có thể nói Đền Thành Hoàng là một trong những nơi phồn hoa nhất. Đặc biệt trong thời gian diễn ra hội chùa, nơi đây trưng bày rất nhiều loại hàng hóa nhỏ, người đi đường qua lại tấp nập và đa dạng...
Là một nét văn hóa đô thị lâu đời và độc đáo ở đất nước tôi, mặc dù Thành hoàng không còn được người dân hiến tế nữa, nhưng Đền thờ Thành hoàng vẫn là một phần rất đặc biệt của các thành phố Trung Quốc.
01
Tại sao lại là Đền Thành Hoàng?
Nếu bạn muốn danh vọng và tiền tài, bạn nên đến thăm Đền Văn - Đền Khổng Tử ; Nếu bạn muốn giàu có và may mắn thì hãy đến Đền Ngô - Đền Quán Thế Âm. Nếu muốn có cuộc sống tốt đẹp với thời tiết đẹp và đủ thứ vật chất thì phải đến “đền thờ gia tộc” của dân thường – Đền Thành Hoàng .
Một trăm năm trước, các thị trấn và thành phố Trung Quốc từ cấp huyện trở lên, bất kể quy mô lớn nhỏ, thường có Đền thờ Thành hoàng, nơi thờ phụng Thành hoàng. Nếu vị thánh bảo trợ của thành bang Hy Lạp là Athena, thì vị thánh bảo trợ của chúng ta là Thần Thành phố.
Tên Thành Hoàng lần đầu tiên xuất hiện trong “Kinh Dịch”. Trong quyển 4 của Kinh Dịch có câu: “Khi thành được khôi phục thành hào, đừng dùng quân”. Trong "Sách thuyết lý giải tử", hai từ này được giải thích riêng: "Thành nghĩa là nơi con người sinh sống". "Hoàng nghĩa là thành, nếu có nước thì gọi là Chi, nếu không có nước thì gọi là Hoàng." Có thể thấy rằng, tên gọi Thành Hoàng ban đầu là tên của một loại thành phố nhất định.
Thành thần đương nhiên là hiện thân của đức tin vào thành phố. Ngay từ hơn 2.300 năm trước, “Sách Lễ” đã ghi chép lại một nghi lễ hiến tế vào thời nhà Chu, đó là lễ hiến tế “Bala” sau vụ thu hoạch mùa thu.
Trong “Bát La”, thứ bảy là “Thủy Dung” - hào nước. Theo một nghĩa nào đó, đây là hình thức thờ cúng Thành hoàng sớm nhất.
Tuy nhiên, Đền thờ Thành Hoàng thực sự đã xuất hiện vào thời Tam Quốc, Tấn và Nam Bắc Triều. Trong thời kỳ này, chiến tranh xảy ra thường xuyên và người dân phải cầu xin nơi trú ẩn và hòa bình, vì vậy việc thờ cúng Thần Thành phố đã ra đời.
Sách Bắc Tề, Tiểu sử Mộ Dung Viêm, ghi lại một câu chuyện về việc thờ cúng Thành hoàng:
Vào năm 555 sau Công nguyên, Mộ Dung Viêm của nhà Bắc Tề đang trấn giữ Nghiệp Thành, nhưng bị quân Lương của Nam Triều bao vây, nguồn cung cấp nước và đất đai của ông bị cắt đứt, khiến tình hình trở nên nguy cấp. "Có một ngôi đền trong thành phố, thường được gọi là Thành thần." Vào thời điểm quan trọng này, các vị tướng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc dẫn dắt người dân cầu nguyện. Sự phù hộ của Thành thần đã phát huy tác dụng, tạo ra sóng gió phá tan chướng ngại vật do quân địch dựng lên trên đường thủy, cứu quân Bắc Tề thoát khỏi nguy hiểm.
Có vô số câu chuyện như thế này trong thời buổi khó khăn, nhưng không thể phủ nhận rằng thời buổi khó khăn thực sự là mảnh đất màu mỡ cho đức tin. Từ đó trở đi, Thành thần dần dần thăng lên tế đàn.
**Đến thời nhà Đường, việc thờ cúng Thành hoàng đã trở thành một trào lưu phổ biến. **Trong thời kỳ này, mỗi tiểu bang và quận về cơ bản đều có nghi lễ riêng để thờ thần thành phố của mình. Ngoài việc tế lễ thường xuyên, khi gặp thiên tai như hạn hán, lũ lụt, cán bộ địa phương cũng cần tế thần Thành hoàng và cầu nguyện thay cho người dân.
Vào thời điểm này, Thành thần về cơ bản vẫn được người dân tôn thờ là người bảo vệ thành phố.
"Thành thần là người bảo vệ, dân chúng là người hỗ trợ"
——"Bài văn tế thần thành Hồng Châu" của Trương Cửu Linh
Trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, đã có nhiều thập kỷ hỗn loạn khi các nước nhỏ cai trị lãnh thổ của riêng mình và các triều đại thay đổi thường xuyên. Vì vậy, địa vị của Thành thần một lần nữa được nâng cao, thậm chí lên tới cấp bậc quốc vương. Vào thời đó, các quốc vương của nhiều quốc gia, vì muốn bảo vệ sự thịnh vượng của đất nước, đã lần lượt ban tên đền thờ cho các đền thờ Thành thần và phong tặng danh hiệu cho các Thành thần. **Ví dụ, Thành hoàng hiện tại của Hàng Châu được vua Ngô Việt phong là "Thuận Nghĩa Bảo Ninh Vương".
Trên cơ sở này, việc thờ cúng Thành hoàng trở nên phổ biến hơn vào thời nhà Tống. Trong thời kỳ thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Thành hoàng chính thức được đưa vào nghi lễ tế thần và trở thành một trong những vị thần phải được thờ cúng theo nghi lễ quốc gia. Nhà Nguyên kế thừa nghi lễ tế thần của nhà Tống và lập nên “Thủ đô thần” tại kinh đô. Nó cũng nâng cao địa vị của vợ của Thành thần, ban cho bà một danh hiệu và đặt bà vào vị trí hiến tế tương tự.
"Kể từ thời Khai Bảo và Hoàng Du, ... các thành thần của các châu, các huyện đã đáp lại lời cầu nguyện và ban tặng rất nhiều danh hiệu đến nỗi không thể liệt kê hết được."
——"Lịch sử nhà Tống·Lễ thư tập 8"
Vào thời nhà Minh và nhà Thanh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng đã bước vào thời kỳ hoàng kim. Hoàng đế Hồng Vũ Chu Nguyên Chương đã ban tặng các tước hiệu trên khắp thế giới và ban tặng danh hiệu "Thành thiên kiến quốc tư mật thánh phụ hòa vương" cho Thành thần Kyoto và danh hiệu "Hiên thánh vương" cho Thành thần Khai Phong. Ông cũng ra lệnh cho tất cả các châu, tiểu bang và quận phải xây dựng lại đền thờ Thành thần của mình và phong tước cho các Thành thần của các châu, tiểu bang và quận tương đương với bậc hai, ba và bốn trong triều đình... Sau đó, chính quyền nhà Thanh áp dụng chế độ nhà Minh và tín ngưỡng vào Thành thần đạt đến đỉnh cao.
Vào thời điểm này, Thành thần ngoài vai trò là vị thần bảo hộ còn đảm nhiệm chức vụ quan lại ở địa phương.
“Kinh Thái Thượng Lão Quân về năng lực trừ tai ương và ban phúc của Thành thần” của triều đại nhà Minh tóm tắt nhiệm vụ của Thành thần như sau: “Thay mặt Trời cai quản thế giới, trừ tà diệt ác, bảo vệ đất nước và mang lại hòa bình cho quốc gia, ban phước lành, quyết định sự sống và cái chết, và ban cho mọi người phúc lành và trường thọ.”
Cẩm nang huyền thoại về thế giới ngầm do Thành thần ban hành (bản đồ dữ liệu)
Theo một góc độ nào đó, Miếu Thành Hoàng vào thời điểm đó giống như một cơ quan chính quyền được thành lập ở thế giới ngầm.
Không nên tiếp cận các cơ quan chính quyền thực sự và không nên tìm đến các quan tòa cấp cao và quyền thế của quận. Đền thờ Thành hoàng nằm giữa âm và dương, là con đường tốt nhất để người dân thời đó tiếp cận. Vì vậy, Thành thần thuộc về núi Đông Nguyệt ở trên và cai quản các thổ thần ở dưới, trở thành mắt xích quan trọng trong hệ thống âm phủ. Đền thờ Thành hoàng có thể được coi là sự bổ sung cho chính quyền hiện tại.
Nhìn lại quá trình phát triển lịch sử của Đền thờ Thành thần, vai trò được trao cho Thành thần đã thay đổi tinh tế theo thời gian. Trong cảnh hỗn loạn của chiến tranh, người dân cầu nguyện các vị thần bảo hộ thành phố tưởng tượng để bảo vệ quê hương và người dân thường; Vào thời bình, người dân tưởng tượng rằng các vị thần thành phố có khả năng giao tiếp với núi non, sông ngòi và cảm nhận được gió mây.
Từ đó trở đi, Thành hoàng, với tư cách là vị thần chuyên bảo vệ một khu vực nhất định, được người dân tôn thờ cùng với những người sáng lập ra Phật giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
02
Thành thần là ai?
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn nhiều nghi ngờ. Là quan chức thế giới ngầm được dân chúng công nhận, Thành thần là ai?
Anh ta khó có thể là cùng một người được. Suy cho cùng, có những vị Thần Thành phố trên khắp cả nước. Mỗi tỉnh đều có một Thành thần, mỗi tiểu bang đều có một Thành thần, mỗi huyện đều có một Thành thần, và không có Thành thần nào thấp hơn nữa vì chỉ có cấp huyện trở lên mới đủ điều kiện có một Thành thần.
Nếu chỉ có một người thì tất cả các cấp độ này sẽ bị rối tung.
Đến đây, chúng ta hãy quay lại nguồn gốc. Trong quan niệm về thần của người Trung Quốc, thần được sinh ra từ cả thiên nhiên và thế giới trần tục. Ngay cả một vị thần được tạo ra từ thiên nhiên cũng phải có trải nghiệm cá nhân. Chúng ta sợ sức mạnh của thiên nhiên, kính sợ Chúa và tôn thờ Ngài, nhưng đồng thời, với tư cách là chủ nhân, chúng ta cũng tin rằng “Chúa nằm trong tay con người”.
Tương tự như vậy với Thành Thần. Sinh ra từ niềm tin của thành phố, ban đầu nó không có nhận thức về bản thân. Nhưng từ thời nhà Đường, người ta thường phong cho hồn ma của các vị quan thanh liêm, danh nhân nông thôn và những người đàn ông dũng cảm, chính trực có công lao với dân là thành hoàng, với hy vọng linh hồn của họ có thể bảo vệ dân như khi còn sống.
Hải Thụy, một vị quan nổi tiếng thời nhà Minh
Có vô số ví dụ về điều này. Trong cuộc tranh chấp Sở-Hán, Hạng Vũ đã phong Ying Bu là "Vua của Cửu Giang" và một "Đền Cửu Giang Yingbu" được xây dựng tại thành phố Liuhe. Vào thời nhà Tống, ngôi đền được đổi thành Đền thờ Thành hoàng và bức tượng Anh Bố được tôn là Thành hoàng của huyện Lục Hợp.
Thành hoàng của Trịnh Châu, Lan Châu và nhiều nơi khác là chiến binh dũng cảm Cơ Tín, người đã từng cải trang thành Hán Đế Lưu Bang và giúp ông trốn thoát, hy sinh mạng sống vì công lý.
Tượng của Ji Xin
Đôi khi, một thành phố có nhiều hơn một vị Thần Thành phố như vậy. Ví dụ, Đền thờ Thành hoàng ở Thượng Hải thờ ba vị thành hoàng: một là Hoắc Quang, vị tướng vĩ đại của thời Tây Hán; người thứ hai là Trần Hoa Thành, một vị tướng yêu nước vào cuối thời nhà Thanh; và người thứ ba là Tần Bá Vũ, người đã giúp Thượng Hải tránh được cuộc thảm sát vào cuối thời nhà Nguyên và đầu thời nhà Minh.
Ở Chiết Giang, sau khi Văn Thiên Tường mất, người dân Lâm An (nay là Hàng Châu) thời Nam Tống rất khâm phục tham vọng phục vụ đất nước của ông nên đã tôn Văn Thiên Tường làm "Thủ đô thần" và xây dựng đền thờ để thờ ông. Chu Tín, quan cai quản Chiết Giang thời nhà Minh, là người trung thực và chính trực. Sau đó ông bị vu khống và giết chết, để lại những lời cuối cùng: "Làm một vị mục sư chính trực khi còn sống và làm một hồn ma chính trực khi chết!" Sau khi được phục hồi, Chu Tín cũng được phong làm Thành hoàng của Chiết Giang, và một ngôi đền được xây dựng trên núi Vũ Sơn.
Văn Thiên Tường
Phần lớn trong số này là các vị thần thành phố cấp quận. Nếu đạt tới cấp huyện thì dân làng và các nhà hiền triết địa phương có thể trở thành thần thành phố. Hãy tưởng tượng rằng khi những người sống dưới cấp huyện thờ thần, rất có thể họ đang cầu nguyện với chính từ đường hoặc đền thờ của họ.
Theo góc độ này, sự kế thừa của Thành thần có vẻ rõ ràng - xét cho cùng, hệ thống Thành thần có nền tảng chính thức vững chắc cũng cần được thúc đẩy.
Có lẽ vì lý do này mà mặc dù mọi người tôn kính Thành hoàng, nhưng so với hình tượng Đức Phật và Bồ tát trong Phật giáo - hiện thân của sự hoàn hảo, Thành hoàng giống một vị thần được nhân cách hóa và dễ giao tiếp hơn.
Một câu chuyện từ một studio Trung Quốc: "Khám phá thành thần" Thành thần là trách nhiệm của người dân
Sẽ còn thú vị hơn nữa khi khám phá thái độ của giới trí thức đối với Thành hoàng. Khi Trương Kiến, học giả và thánh nhân cuối cùng của Nam Thông, dâng lễ vật cho Thành thần, đầu tiên ông đã lý luận với Thành thần rồi đưa ra "tối hậu thư", đe dọa sẽ ngừng dâng lễ vật mãi mãi, khiến mọi người bật cười.
Mặc dù đây là sự kết thúc của lịch sử thờ cúng Thành thần, nhưng nó có thể bắt nguồn từ văn bản thờ cúng Thành thần của Hàn Vũ và các tác phẩm khác, và thái độ đối xử với các vị thần không hề phục tùng hay coi thường cũng là sự tiếp nối của truyền thống này.
03
Lễ hội tế thần - hội chùa
Nhiều vị thần có nghi lễ hiến tế riêng của mình, và Thành thần cũng không ngoại lệ. Là một phần quan trọng của các vị thần thế tục, Thành hoàng, giống như Táo quân, có những nghi lễ riêng biệt - hội đền .
Mặc dù Đền thờ Thành hoàng được trang hoàng rất trang nghiêm vì sự uy nghiêm, nhưng những con phố xung quanh Đền thờ Thành hoàng thường là nơi giải trí thú vị nhất trong tâm trí người dân.
Là không gian thương mại và giải trí gắn kết nhất thành phố, vào ngày đầu tiên và ngày rằm hàng tháng, các bệ thờ lớn nhỏ của Đền Thành Hoàng luôn chất đầy các loại lễ vật, tín đồ sùng đạo sẽ vào đền để thắp hương, xua đuổi tai ương và cầu phúc.
Vào những thời điểm nhất định trong năm, như ngày sinh của Thành hoàng, ngày sinh của vợ Thành hoàng và những ngày quan trọng như ngày 15 tháng giêng âm lịch, ngày 15 tháng 7 âm lịch và ngày 1 tháng 10 âm lịch, người ta tổ chức các buổi lễ lớn để thờ cúng các vị thần.
"Chợ đền được đặt tên theo Đền Thành Hoàng ở phía tây thành phố. Chợ kéo dài khoảng ba dặm từ đền ở phía tây đến phố Xingbu ở phía đông và gần giống với Chợ Đèn Lồng. Chợ mở cửa vào ngày đầu tiên, ngày mười lăm và ngày hai mươi lăm hàng tháng."
---Yandu Youlanzhi (Du hành ở Yandu) vào thời nhà Minh
Đây là thời điểm đông đúc nhất xung quanh Đền Thành Hoàng. Có những vở kịch được trình diễn trên sân khấu cả ngày lẫn đêm, và những người bán hàng nhỏ cạnh tranh để mở cửa hàng gần Đền Thành Hoàng; chiêm tinh, bói toán, y học Trung Quốc, kịch, tung hứng, ma thuật...
Các nghệ sĩ từ mọi tầng lớp xã hội tụ họp tại đây, dòng người hành hương và khách du lịch không ngừng nghỉ khiến nơi đây trở nên vô cùng sôi động. Thậm chí còn có mô tả như vậy trong các tài liệu thời nhà Minh: "Những thương gia nước ngoài mắt xanh, những người hành hương từ nước ngoài, với hàng triệu đô la trong túi, nói chuyện vô nghĩa trong các cửa hàng."
Ngoài Hội chợ Đền thờ Thành hoàng Bắc Kinh, nơi khai sinh ra hội chợ đền thờ, nhiều phong tục thờ Thành hoàng và hội chợ Đền thờ Thành hoàng khác nhau đã được hình thành trên khắp cả nước.
Ví dụ, ở vùng ven biển Giang Nam, có phong tục tổ chức "Thành hoàng diễu hành" vào ngày Tết Thanh minh, rước Thành hoàng đến các nghĩa trang ngoại thành để xem xét và phán xét ma quỷ.
Vào đêm trước lễ rước, hàng chục người trong chùa sẽ đi bộ quanh các con phố, được gọi là "tuần tra đường phố"; Ngày hôm sau, Thành hoàng sẽ được rước đi, với tiếng cồng, tiếng trống dẫn đầu, theo sau là đội quân nghi lễ cầm nhiều loại vũ khí, sau đó sẽ có đội cà kheo, đội kèn, đội gõ, đội hương án, v.v.
Mọi người mỗi người cầm một nén hương đi theo sau, dọc đường dựng lên các bàn thờ... Trong niềm vui thế tục, thậm chí là lễ hội như vậy, một bầu không khí hòa hợp "người và thần cùng vui mừng" đã hình thành.
Mặc dù mục đích là "thể hiện ân sủng thế gian với Thành thần" và "làm hài lòng Thành thần", mọi người cũng nhận được từ đó phương thuốc cần thiết để an ủi cuộc sống bình thường của họ. Hội chợ Miếu Thành Hoàng được tổ chức thường xuyên và từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống đô thị.
04
Làm thế nào để tham quan Đền Chenghuang?
Suy cho cùng, Thành hoàng vẫn được thờ phụng trong các ngôi đền.
Là cơ quan chính quyền ở thế giới ngầm, đặc điểm và hình dáng của Đền thờ Thành hoàng cũng tương tự như cơ quan chính quyền ở thế giới người sống. Đây là cách bố trí có nhiều sảnh đối xứng dọc theo trục trung tâm và theo kiểu "sảnh trước và phòng ngủ sau".
“Tiền điện” là điện chính, nơi thờ phụng vị thần của Thành hoàng; các bậc thềm và hiên nhà phía trước là nơi cúng bái để mọi người đến thờ cúng; "Phòng ngủ phía sau" là hành lang phía sau, nơi dâng lễ vật cho cha mẹ hoặc vợ của Thành thần.
Trong hầu hết các trường hợp, các sảnh phụ hoặc hai cánh của Đền thờ Thành thần đều có liên quan mật thiết đến "Mười hai vị quan" của thế giới ngầm. Ngoài việc chỉ ra rằng Thành thần thuộc hệ thống Đông Việt, các bức tượng của các vị thần địa ngục cũng được điêu khắc để mô tả thế giới ngầm một cách trực quan và đơn giản.
Các tấm biển và câu đối trong Đền thờ Thành hoàng thường gợi nhớ và phóng đại quan niệm nghệ thuật và chủ đề độc đáo của Đền thờ Thành hoàng, tạo nên phong cách độc đáo và cảnh tượng tráng lệ.
Ngoài ra, hầu hết các Đền thờ Thành hoàng đều có tháp nhạc hoặc sân khấu hai tầng được trang trí lộng lẫy và được sử dụng để biểu diễn trong các lễ hội để làm hài lòng Thành hoàng.
Ngày nay, mặc dù tục thờ Thành hoàng từ lâu đã không còn xứng đáng với tên gọi của nó và đã suy tàn, nhưng dấu vết về sự thịnh vượng của Thành hoàng thời nhà Minh và nhà Thanh vẫn được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong những di tích còn sót lại của các công trình kiến trúc lịch sử.
Ngày nay, Đền thờ Thành hoàng vẫn còn tồn tại ở các thành phố nông thôn nước ta. Sự kết hợp giữa Hội chợ Đền Thành Hoàng với phố ăn vặt và phố thương mại vẫn tô điểm thêm sắc màu cho cuộc sống của chúng ta.
1) Đền thờ Thành phố Thượng Hải
Đền Thành Hoàng, tọa lạc trên đường Phương Bang, quận Hoàng Phố, Thượng Hải, là một trong những ngôi đền Đạo giáo quan trọng nhất ở Thượng Hải.
Theo truyền thuyết, Đền thờ Thành hoàng Thượng Hải được vua Ngô Tôn Hạo xây dựng vào thời Tam Quốc, và mãi đến thời Vĩnh Lạc của nhà Minh mới được đổi tên thành Đền thờ Thành hoàng.
Tiền sảnh được dùng để thờ bài vị của Hoắc Quang, vị tướng vĩ đại và là thần của Kim Sơn. Chính điện được dùng để thờ bài vị của Tần Vũ Ba, vị quan cai quản được phong là Tiên Hữu Ba cấp bốn và là thành thần. Sảnh sau là cung điện đang ngủ. Phía trước cổng có một cổng vòm tưởng niệm được xây dựng vào năm 1535, còn sân khấu được xây dựng vào năm 1865.
Đền thờ Thành hoàng Thượng Hải là một tòa nhà lớn theo phong cách miền Nam với tường đỏ và ngói đất. Các tòa nhà chính trong chùa bao gồm quảng trường trước chùa, chính điện, Điện Nguyên Thần, Điện Thần Tài, Điện Từ Hàng, Điện Thành Hoàng và Điện Nương Nương.
Đền thờ Thành hoàng Thượng Hải tọa lạc tại khu danh lam thắng cảnh Dự Viên thịnh vượng và nổi tiếng nhất Thượng Hải. Đây là một ngôi đền Đạo giáo quan trọng ở Thượng Hải và có lịch sử gần 600 năm. Qua những thăng trầm của cuộc sống và sự thay đổi của các triều đại, Đền thờ Thành hoàng Thượng Hải cũng đã trải qua những thăng trầm.
2) Đền thờ Thành hoàng Bắc Kinh
Có bốn Đền thờ Thành hoàng nổi tiếng ở cố đô. Trong số đó, Đền thờ Thành hoàng Tây Thành Đô là ngôi đền duy nhất trong bốn ngôi đền vẫn còn tồn tại. Đây cũng là tòa nhà lâu đời nhất và lớn nhất ở thủ đô.
Nguồn hình ảnh: Chính quyền quận Tây Thành Bắc Kinh
Tọa lạc tại số 33 phố Chengfang, quận Xicheng, Bắc Kinh. Ngôi chùa được xây dựng vào năm thứ bảy của Nguyên Chí Nguyên (1270) và được đặt tên là Đền Youshengwang Lingying. Năm Thiên Lịch thứ 2 (1329), ông được phong làm vua Hộ quốc Hộ Ninh tại Đền thờ Thành hoàng Đại Đô. Nó được xây dựng lại vào thời Vĩnh Lạc của nhà Minh và đổi tên thành Đại Vệ Lăng Từ.
Trong thời nhà Minh và nhà Thanh, Thành hoàng Kyoto là vị thần đứng đầu của tất cả các thành hoàng trên thế giới, cai quản các thành hoàng của mười ba tỉnh. Bên ngoài chính điện của Đền thờ Thành hoàng Bắc Kinh thời nhà Minh và nhà Thanh, có tượng mười ba vị thành hoàng cầm bài vị hồ và đứng ở hai bên. Bên trong chùa có bia đá của Minh Anh Tông, Thanh Thế Tông và Thanh Cao Tông, cũng như những câu đối do Hoàng đế Khang Hy và Hoàng đế Ung Chính viết, phản ánh đầy đủ địa vị của Thành hoàng Bắc Kinh.
3) Đền thờ Thành phố Tây An
Đền Tây An Đô Thành Hoàng là một trong hai ngôi đền Đạo giáo còn sót lại trên phố Tây ở Tây An, tỉnh Thiểm Tây. **Ngôi chùa được xây dựng lần đầu tiên vào năm thứ 20 đời Hồng Vũ thời nhà Minh (1387), địa điểm ban đầu của ngôi chùa nằm trên phố Cửu Diêu bên trong Cổng Đông. Nó được chuyển đến địa điểm hiện tại vào năm thứ 8 đời Tuyên Đức thời nhà Minh (1432). Đây là một trong ba Đền thờ Thành hoàng lớn nhất thế giới vào thời điểm đó, quản lý các Thành hoàng của một số tỉnh phía tây bắc, do đó được gọi là "Đền thờ Thành hoàng".
Nguồn hình ảnh: Ủy ban Phát triển Du lịch Tây An
Đền thờ Thành hoàng ở Tây An đã được xây dựng lại và phá hủy nhiều lần trong thời nhà Thanh. Ngôi đền có quy mô lớn và được chia thành hai phần chính: sân đền và sân Đạo giáo. Hiện nay chỉ còn lại chính điện được xây dựng lại vào năm đầu tiên thời Ung Chính của nhà Thanh (năm 1723). Ngôi nhà có giá đỡ và mái hiên, trông rất uy nghi và tráng lệ. Mái nhà được lợp bằng ngói tráng men, mái hiên phía trước, cửa sổ và cửa lưới được chạm nổi nhiều hoa văn, họa tiết khác nhau, với những chạm khắc tinh xảo và hoa văn tinh xảo.
Ban đầu trong hội trường có tượng Thành hoàng, Quan tòa và các tiểu quỷ. Tòa nhà uy nghi, giản dị và tráng lệ, thể hiện trí tuệ và sức sáng tạo nghệ thuật của người lao động Trung Quốc xưa.
4) Đền thờ Thành phố Quảng Châu
Đền thờ Thành hoàng Quảng Châu được xây dựng lần đầu tiên vào năm thứ ba đời Hồng Vũ thời nhà Minh (năm 1370). Đây là Đền thờ Thành hoàng lớn nhất và tráng lệ nhất ở vùng Lĩnh Nam vào thời nhà Minh và nhà Thanh.
Theo ghi chép lịch sử, Đền thờ Thành hoàng Quảng Châu ban đầu chỉ là Đền thờ Thành hoàng cấp tỉnh. Vì được các quan lại tỉnh tôn thờ nên địa vị của ông cao hơn các vị thần thành phố khác trong tỉnh. Vào thời Ung Chính của nhà Thanh, Thành hoàng của châu Quảng Châu đã được nâng cấp thành Thành hoàng của kinh đô, có thẩm quyền trên toàn tỉnh, và Đền thờ Thành hoàng của châu Quảng Châu cũng được nâng cấp thành Đền thờ Thành hoàng của kinh đô.
Đền thờ Thành hoàng ban đầu có một cổng lễ, một cổng giữa, một lầu thờ, một chính điện, v.v. Bên trái và bên phải lầu thờ đều có nơi nghỉ trọ. Nơi đây từng được đánh giá là một trong "Bát danh lam thắng cảnh của Quảng Châu" vào thời nhà Thanh. Khi ngôi đền bị phá bỏ để xây dựng đường phố vào năm 1920, các tòa nhà phía trước điện thờ đã bị phá bỏ, chỉ còn lại chính điện và điện thờ của Đền thờ Thành hoàng. Ngày nay, ngôi đền đã được xây dựng lại, nhưng toàn bộ tác phẩm nghệ thuật nguyên bản bên trong ngôi đền đã bị phá hủy.
5) Đền thờ Thành phố Hàng Châu
Đền thờ Thành hoàng Vũ Sơn được chuyển đến đây vào năm Thiệu Hưng thứ chín thời Nam Tống (năm 1139 SCN), và bắt đầu thờ Chu Tín vào thời Vĩnh Lạc thời nhà Minh.
Đền Chu Tín mới xây dựng có tượng Chu Tín và phần giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của ông, thể hiện sự tưởng nhớ của người dân Hàng Châu đối với vị quan thanh liêm xưa kia.
Đình Thành Hoàng là tòa nhà cổ bảy tầng có diện tích 3.789m2, cao 41,6m. Nó thể hiện động lực bay vút lên bầu trời thông qua nhiều góc cong lên của mỗi tầng, và phần trên cùng được thiết kế như một chiếc lầu bay, tượng trưng cho sự dang rộng đôi cánh phượng hoàng và lầu núi tiên, gợi cho mọi người nhớ đến truyền thuyết thần thoại "rồng bay, phượng múa trên sông Tiền Đường" . Có thể coi đây là tòa tháp nổi tiếng thứ tư ở Giang Nam.
Tài liệu tham khảo:
[1] Tạ Linh Vũ. Nghiên cứu về tín ngưỡng thành hoàng thời nhà Tống[D]. Đại học Sư phạm Thượng Hải, 2011.
[2] Tống Vĩnh Chi. Nghiên cứu về tín ngưỡng thành hoàng và đền thờ thành hoàng: 1101-1644[D]. Đại học Tế Nam, 2006.
[3] Vương Triển Hoa. Niềm tin vào các vị thần thành thị và chính trị thời nhà Minh và nhà Thanh[D]. Đại học Sư phạm Trung Hoa, 2005.
[4] Thạch Gia, Phù Yến. Một cuộc thảo luận ngắn gọn về văn hóa của Đền Chenghuang [J]. Các vấn đề đô thị, 2003(02):5-8+13.
[5] Vu Chí Bân. Nghiên cứu về phong tục dân gian dâng lễ vật tế thần thành phố[J]. Tạp chí Đại học Tô Châu, 1998(01):74-77.
[6] Hamajima Atsushi. Về cải cách chế độ thành hoàng dưới thời Chu Nguyên Chương[J]. Tạp chí Lịch sử, 1995(04):7-15.
-KẾT THÚC-
Biên tập: Nghệ thuật Du lịch Văn hóa ll
Thiết kế: Trắng
Nguồn: Nghệ thuật Du lịch Văn hóa