Vào năm 1896, tại nơi hiện nay là Somalia, Carl Akeley đã bắn vào một vật gì đó di chuyển trong bụi rậm.
Khiến anh ngạc nhiên, một con báo cái nặng hơn 30kg nhảy ra khỏi bụi cây, hất văng khẩu súng trường và lao vào anh . May mắn thay (nhưng không may cho con báo), Ackerley chỉ bị cắn vào gốc cánh tay phải và không bị thương ở bộ phận quan trọng nào. Vì vội vã nên Ackerley khó có thể cảm nhận được nỗi đau. Anh ta nằm xuống đất, dùng tay trái nắm lấy cổ con báo, ép đầu gối vào ngực con báo và từ từ đẩy miệng nó xuống cho đến khi chạm đến vị trí bàn tay phải của anh ta. Cuối cùng, anh ta đấm mạnh nắm đấm phải vào cổ con báo , khiến nó ngạt thở.
Lucky Akeley và Unlucky Leopard | WikimediaCommons
Câu chuyện kỳ lạ về trận chiến giữa Ackley và con báo đã được Willard Price viết thành bộ tiểu thuyết Hal Roger và trở nên nổi tiếng ở Trung Quốc. Nhưng ít người biết về những việc làm khác của người này.
Mang thiên nhiên trở lại cuộc sống trong các bảo tàng
Ackerley là người phụ trách nhồi bông động vật tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field. Vào thời của ông, công nghệ nhồi bông vẫn còn rất thô sơ : da được lột ra, khâu lại và phủ rơm hoặc mùn cưa. Ackerley rất am hiểu về cả điêu khắc và động vật học và rất không hài lòng với "mẫu vật linh hồn".
“Mẫu vật linh hồn” | David Haberthür / Flickr
Ông đã phát triển kỹ thuật nhồi bông của riêng mình: đầu tiên, ông tạo ra một tác phẩm điêu khắc bằng đất sét của con vật, với các cơ và xương có cấu trúc giải phẫu chính xác . Sau đó, một lớp keo được phủ lên tác phẩm điêu khắc và một lớp mỏng giấy bồi và lưới mắt cáo được phủ lên, bám chặt vào tác phẩm điêu khắc để tái tạo hình dạng của nó. Sau đó, quét vecni để vỏ không thấm nước, dùng nước để hòa tan keo và có thể tháo vỏ ra. Cuối cùng , cẩn thận phủ lớp lông động vật lên vỏ (không được phủ da lên tác phẩm điêu khắc bằng đất sét), và bạn sẽ có một mẫu vật rỗng tinh xảo.
Ackley đang làm việc trên khuôn mặt của một con khỉ đột | Phòng trưng bày chân dung quốc gia Smithsonian
Ackerley không hài lòng với "hình thức tương tự" mà còn phấn đấu đạt "tinh thần tương tự". Ông đã tạo ra các mẫu vật động vật ở tư thế vui tươi và chiến đấu, sắp xếp chúng thành từng nhóm trông giống như một gia đình và sắp xếp các bối cảnh cực kỳ phức tạp để tái hiện môi trường tự nhiên của chúng khi chúng còn sống. Các mẫu vật trong " Bốn mùa của hươu đuôi trắng " được chia thành bốn nhóm theo mùa xuân, hạ, thu và đông. Bối cảnh thay đổi từ cây xanh và dây leo sang tuyết trắng, như thể khu rừng Virginia đã được phép thuật làm đông cứng lại và chuyển đến bảo tàng. Chỉ riêng bối cảnh đã có hơn 10.000 chiếc lá được sử dụng, phần lớn trong số đó được vợ và đồng nghiệp Delia Akeley làm.
Nền của mẫu vật hươu đuôi trắng trông giống như một khu rừng thực sự | Thư viện Di sản Đa dạng sinh học
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Akeley là " Phòng trưng bày động vật có vú châu Phi Akeley" được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ. Nó bao gồm 28 nhóm mẫu vật và mất 17 năm cuối đời của ông và 10 năm của những người kế nhiệm để hoàn thành. Ở giữa là một đàn voi thảo nguyên châu Phi đang "đi" về phía con người với tốc độ rất nhanh. Các phòng triển lãm xung quanh trưng bày sư tử, khỉ đột, bò rừng bizon, v.v., tái hiện hệ sinh thái tự nhiên của đồng bằng Serengeti ở Châu Phi, thượng nguồn sông Nile và miền đông Congo.
Trưng bày động vật châu Phi tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ | Evolutionnumber9 / Wikimedia Commons
Người làm mẫu vật với máu trên tay
Trong khi trầm trồ trước tay nghề thủ công tinh xảo của Ackerley, chúng ta không nên quên rằng số lượng lớn vật liệu mẫu vật này được lấy từ động vật hoang dã thực sự. Vào thời điểm đó, công nghệ nhiếp ảnh vẫn còn rất thô sơ (một thành tựu khác của Akeley là ông đã cải tiến công nghệ máy ảnh để chụp ảnh động vật, và sau này chiếc máy ảnh mà ông cải tiến đã đóng vai trò lớn trong việc đưa tin), vì vậy, giết động vật và làm mẫu vật gần như là cách duy nhất để thế giới phương Tây hiểu về động vật hoang dã.
Akeley đã đến Châu Phi năm lần trong đời và thu thập được một số lượng lớn mẫu vật cho bảo tàng. Điều này khiến cuộc sống của Akeley đầy rẫy những mâu thuẫn: ông chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên trên đất của người khác và giết hại động vật hoang dã với thái độ coi thường của một người thực dân da trắng, theo tiêu chuẩn ngày nay, đây là một hành động xâm lược đáng bị khinh thường.
Ackerley và đồng nghiệp đi săn ở Kenya. Con voi này đã bị vợ của nó là Delia bắn chết | Hình ảnh sách lưu trữ Internet
Nhưng ông ta không phải là một tên cướp thực sự tàn nhẫn. Akeley yêu thích môi trường tự nhiên của châu Phi và gọi châu lục này là " châu Phi tươi sáng nhất ", trái ngược với khái niệm "châu Phi đen tối nhất" mang tính phân biệt đối xử của một số người phương Tây. Ông đã chứng kiến vùng đất hoang tàn sau khi hầu hết các loài động vật hoang dã đã bị săn đuổi, và lên án hành động của những người thực dân da trắng: "Những chương đen tối của lịch sử châu Phi đã được viết nên bởi sự tiến bộ của nền văn minh."
Tượng đồng về người bản địa châu Phi đang săn sư tử, do Akeley thực hiện, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Field ở Chicago | Evolutionnumber9 / Wikimedia Commons
Năm 1921, Akeley đã đến Cộng hòa Dân chủ Congo ngày nay (lúc đó đang bị Bỉ chiếm đóng làm thuộc địa) để săn khỉ đột. Mục tiêu của ông là tìm ra những con khỉ đột oai nghiêm và đẹp nhất và tạo ra một bộ mẫu vật để cho mọi người thấy sự yên bình và vẻ đẹp của rừng mưa nhiệt đới châu Phi . Nhưng "sự yên bình" này được xây dựng trên sự giết chóc. Khi nhóm của ông bắn chết những con khỉ đột, Ackerley cảm thấy đồng cảm với loài vật giống người này, ca ngợi chúng là những gã khổng lồ oai nghiêm, tốt bụng và hối hận về hành động của chính mình. Anh nhìn về phía ngọn núi Mikeno ở đằng xa. Những đám mây đã tan và hình dáng của ngọn núi hiện rõ trên bầu trời xanh. Cảnh này đã khắc sâu trong tâm trí Ackerley và cuối cùng được vẽ trên tường làm nền cho phòng triển lãm khỉ đột tại Bảo tàng Động vật Châu Phi.
Những chú khỉ đột ở African Hall | ThomQuine
Chôn dưới núi lửa
Sau cuộc săn khỉ đột, Akeley đã tới Bỉ để vận động Vua Albert I thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên ở Châu Phi. Vào thời điểm đó, bảo vệ động vật hoang dã vẫn còn là một khái niệm mới lạ. Vào năm 1925, khu bảo tồn khỉ đột đầu tiên trên thế giới được thành lập , ngày nay là Công viên quốc gia Virunga, và Akeley là một trong những động lực quan trọng.
Năm 1926, Akeley đến Châu Phi lần cuối và qua đời vì bệnh dưới chân núi Mycenae. Thi thể của ông được chôn trên mảnh đất nơi ông giết con khỉ đột và nhìn ra những ngọn núi xa xa. Liệu ông có được người dân và thiên nhiên châu Phi tha thứ không? Những ngọn núi không thể trả lời.
Tượng đồng hình con khỉ đột do Akeley làm | nhồi bông4tiền mặt
Bài viết này được trích từ Lịch loài, hoan nghênh chuyển tiếp