Phòng học số 1, cùng nhau tìm hiểu về phúc lợi công cộng
Hôm nay, Yizai sẽ tìm hiểu về lịch sử từ thiện với mọi người và xem các hội từ thiện và hiệp hội từ thiện hoạt động như thế nào vào thời nhà Minh và nhà Thanh.
Hội Đồng Sơn Đường Ma Cao được thành lập vào năm thứ 18 dưới triều đại của Hoàng đế Quang Tự nhà Thanh (1892). Tổ chức này cung cấp nhiều dịch vụ từ thiện, bao gồm cứu hộ người hấp hối và người bị thương, và giúp đỡ thế giới. Người nhận dịch vụ đến từ mọi quốc tịch và dịch vụ này vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.
Các tổ chức từ thiện do người dân tự nguyện thành lập bắt đầu vào cuối thời nhà Minh và đầu thời nhà Thanh, tiếp tục hoạt động cho đến khi thành lập nước Trung Hoa Mới và chấm dứt hoạt động. Họ đã được tái sinh sau cuộc cải cách và mở cửa. Tương tự như mục tiêu hành động của các tổ chức phúc lợi công cộng hiện nay, trọng tâm của các nhà nghiên cứu về các tổ chức từ thiện và hội trường từ thiện đã tồn tại hơn 300 năm này xuất phát từ hai góc độ chính: một là "phúc lợi xã hội" và hai là "xã hội dân sự".
Tổ chức dân sự tự phát này, độc lập với gia tộc và chính quyền, không chỉ thực hiện các hoạt động từ thiện mà ảnh hưởng của nó đối với “quyền tự chủ của công dân” cũng đã trở thành trọng tâm của các học giả. Người ta thậm chí còn coi nó là đã "mở ra một không gian công cộng" và là một "cộng đồng" trong thành phố.
Hiệu ứng quảng cáo của Đảng Đông Lâm
Trong số các học giả nghiên cứu về hội trường và tổ chức từ thiện, một trong những người có thẩm quyền nhất thực sự đến từ Nhật Bản. Ông là Susumu Fuma, giáo sư tại Khoa Sau đại học về Văn chương của Đại học Kyoto, sinh năm 1948. Từ năm 1979, Fu Ma Jin đã nhiều lần đến Trung Quốc và thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Ông mất 16 năm để hoàn thành "Nghiên cứu về lịch sử các hội từ thiện và nhà từ thiện Trung Quốc", đây là một công trình quan trọng trong lĩnh vực này. Theo "Nghiên cứu về lịch sử các nhà từ thiện và hội từ thiện Trung Quốc", trong số các nhà từ thiện thời nhà Minh và nhà Thanh, "Hội Đồng Sơn" được thành lập sớm nhất và hệ thống này có ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ sau.
Trước thời nhà Minh, Trung Quốc đã có nhiều cơ sở cứu trợ khác nhau. Nhà nước có nghĩa vụ hỗ trợ người góa bụa, trẻ mồ côi và người cô đơn, và điều này đã được ghi vào luật ngay từ thời nhà Hán. Các trại trẻ mồ côi do nhà nước quản lý gần như là đặc điểm chung của mọi quận và huyện dưới thời nhà Minh. Tuy nhiên, việc quản lý trại trẻ mồ côi theo chế độ quan liêu phong kiến lại đầy rẫy nạn tham nhũng và gian lận. Các tổ chức từ thiện là một chương trình cứu trợ khác độc lập với hệ thống cứu trợ quốc gia.
Ngay từ năm Vạn Lịch thứ 18 (1590), Dương Đông Minh, một viên quan nhà Minh đã thành lập Hội Thông Sơn tại quê nhà Hà Nam. Nền tảng của nó là sự kết hợp thân thiện giữa những người nổi tiếng ở huyện Du Thành. Ban đầu có tên là “Hội Đồng Lạc”, sau đổi thành “Hội Đồng Sơn” với lý do “Đồng Sơn là nơi vui vẻ nhất”. Phí thành viên được tất cả các thành viên cùng đóng và được dùng để xây dựng đường sá, cầu cống và cứu trợ người nghèo và người bệnh. Các thành viên cũng thường xuyên tụ họp và ăn tối. Phó Mã Cẩn ví tổ chức này giống như các nhóm như Câu lạc bộ Sư tử và Câu lạc bộ Đồng Tâm ngày nay, và tin rằng đây chính là nguồn gốc của hệ thống Câu lạc bộ Đồng Sơn. Sau này, các tổ chức từ thiện dần dần giảm bớt các hoạt động xã hội và chú trọng hơn vào giáo dục và việc làm tốt.
Vào năm thứ 42 đời Vạn Lịch (1614), các học giả nổi tiếng của Học viện Đông Lâm, bao gồm Cao Bàn Long, Trần Hữu Tuyết, Tiền Nhất Bổn và những người khác, cũng tổ chức Hội Thông Sơn ở Vô Tích, Giang Tô và trở nên nổi tiếng khắp cả nước nhờ ảnh hưởng của Đảng Đông Lâm. Hội Đồng Sơn địa phương vẫn tiếp tục tồn tại cho đến thời vua Khang Hy. Trong xã hội đầy biến động khi các triều đại thay đổi, nó vẫn luôn duy trì sức sống mạnh mẽ và thúc đẩy sự xuất hiện của các tổ chức tương tự ở các khu vực khác.
Hệ thống giới thiệu và hồ sơ tín dụng
Việc quản lý tổ chức của các tổ chức từ thiện có sự khác nhau rất nhiều, nhưng tất cả đều có điểm tương đồng. Ví dụ, mỗi năm có bốn buổi thuyết trình được tổ chức và người tổ chức buổi thuyết trình được gọi là "người chủ trì" và thay phiên nhau đảm nhiệm vị trí này. Chủ tịch được bầu thông qua sự giới thiệu. Người phụ trách không cần phải là viên chức nhưng phải có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực quản lý.
Theo ghi chép có liên quan, tại cuộc họp mùa xuân đầu tiên của Hội Thông Sơn huyện Gia Sơn vào năm Sùng Trinh thứ năm (1632), số tiền quyên góp được là 70 phong bì và 19 lạng bạc; Năm Sùng Trinh thứ 13 (1640), số tiền quyên góp được là 459 phong bao và 93 lạng, 4 cân và 1 phân bạc. Điều này cho thấy sự gia tăng về số lượng thành viên và trung bình mỗi người chỉ phải trả nhiều hơn 2 xu một chút, không phải là gánh nặng đối với một gia đình trung bình.
Tuy nhiên, những người nhận cứu trợ từ Hội Tongshan lại được đối xử khác. Đối tượng cứu trợ đầu tiên của Hội Đồng Sơn là những người con hiếu thảo và phụ nữ hiền đức nghèo khó, bất lực, đối tượng thứ hai là những người già yếu, nghèo túng chưa được đưa vào viện tế bần và không có khả năng ăn xin. Đối với những người dân thường, "hội đồng chính" chỉ có thể cung cấp cho họ một số tiền bố thí ít ỏi theo phán quyết của chính mình. Còn những người nghèo không coi trọng đạo đức, bất hiếu, lười biếng thì không được cứu trợ.
Người nhận cứu trợ sẽ được các thành viên giới thiệu sau khi khảo sát. Hội Đồng Sơn cấp giấy chứng nhận, "phiếu xác minh", cho những người nghèo được công nhận, trong đó ghi lại tên, địa chỉ, tuổi, ngoại hình, tên người giới thiệu, năm và mùa đăng ký, v.v. của người nhận, cũng như hồ sơ cứu trợ nhận được trong mỗi quý của mỗi năm. Người nghèo nhận được cứu trợ dựa trên giấy chứng nhận của họ và văn phòng phân phối sẽ lưu giữ hồ sơ để tham khảo trong tương lai.
Vào cuối mỗi thời kỳ cứu trợ, hiệp hội chính có nghĩa vụ biên soạn và công bố tên của các nhà tài trợ và tình hình cứu trợ như một báo cáo kế toán cho các thành viên, còn được gọi là "hồ sơ tín dụng". Hồ sơ tín dụng rất quan trọng. Hiệp hội Đồng Sơn thị trấn Phụng Tĩnh đã trì hoãn việc công bố hồ sơ tín dụng vào năm thứ tám và năm thứ chín của thời kỳ Hàm Phong, điều này đã gây ra nhiều cuộc thảo luận trong các thành viên và dẫn đến nghi ngờ về việc liệu có hành vi bẩn thỉu nào ẩn giấu đằng sau hay không. Một số hiệp hội từ thiện mời thẩm phán quận tiến hành "đánh giá của bên thứ ba" khi ban lãnh đạo thay đổi để đảm bảo tính công bằng.
Vào thời nhà Thanh, vì việc quyên góp nhiều lần trong năm quá phiền phức nên việc lập bất động sản dưới danh nghĩa từ thiện trở nên phổ biến, vì vậy nhiều hội từ thiện và hội trường từ thiện sở hữu đất đai và tài sản riêng. Không chỉ phương thức gây quỹ thay đổi mà các bài phát biểu giáo dục thường được đưa ra tại các cuộc họp vào thời nhà Minh cũng được các quan chức và viên chức làng đưa ra, và Hội Đồng Sơn chỉ tập trung vào công tác cứu trợ.
Ở những ngôi làng không có người nổi tiếng hoặc người giàu có, Hội Đồng Sơn hoạt động bằng cách yêu cầu mỗi người tiết kiệm một xu bạc mỗi ngày và quyên góp số tiền này sau vụ thu hoạch mùa thu. Họ cũng thực hiện hệ thống kho thóc cộng đồng của Chu Hy, cho người dân vay thóc và cung cấp miễn phí cho những người không có khả năng trả nợ.
Nhiều hình thức tổ chức từ thiện
Các hội từ thiện và hiệp hội khác xuất hiện gần như cùng lúc với Hội Đồng Sơn vào cuối triều đại nhà Minh và đầu triều đại nhà Thanh. Phổ biến nhất là trại trẻ mồ côi, có mặt ở hầu hết mọi nơi và được thừa hưởng từ Cục Từ Dư của triều đại nhà Tống. Nền tảng đằng sau trại trẻ mồ côi là một tổ chức từ thiện có tên là Hiệp hội trại trẻ mồ côi. Ví dụ, dưới thời vua Khang Hy, Hội Cô nhi viện, nơi có nhiều quan chức tham gia với tư cách cá nhân, đã được thành lập tại chùa Tây Chiếu. Vào năm thứ 45 đời vua Khang Hy (1706), hoàng đế ra lệnh thành lập các trại trẻ mồ côi ở tất cả các châu, huyện, thành trên cả nước và sáp nhập vào các cơ quan nhà nước.
Sự xuất hiện của các trại trẻ mồ côi không chỉ xuất phát từ khái niệm “cứu hộ toàn dân” mà còn xuất phát từ bối cảnh xã hội nhất định. Một số học giả tin rằng việc thành lập Cô nhi viện Phúc Kiến vào thời nhà Thanh chủ yếu là để giải quyết hiện tượng đuối nước và bỏ rơi trẻ em gái ngày càng phổ biến trong xã hội và ngăn ngừa các vấn đề xã hội như mất cân bằng giới tính trong dân số và sự suy thoái về phong tục đạo đức do tình trạng đuối nước của trẻ em gái.
Ngoài ra, còn có nhiều hình thức hội từ thiện và xã hội khác nhau, chẳng hạn như hội chôn cất hài cốt chuyên thu thập và chôn cất hài cốt vô chủ, hội phóng sinh chuyên thả nhiều loại động vật và sinh vật khác nhau, hội cứu hộ cứu nạn trong thảm họa lũ lụt và tổ chức tạm thời có tên là Hội Phật nổi Một đời chuyên cứu trợ thiên tai. Quy tắc cứu trợ cơ bản của Hội Yiming Futu là biên soạn "Sổ hộ đói". Mỗi trang của cuốn sách có ba phần. Phần đầu ghi tên người cứu hộ, phần thứ hai ghi “cứu một mạng người” (cứu nhiều mạng người, hay nhiều người cứu một mạng người), phần thứ ba ghi tên người nhận và ngày bắt đầu cứu trợ, gạo và tiền được trao tặng thường xuyên. Có thể nói đây chính là hình thức cứu hộ một kèm một đầu tiên.
Một hội trường từ thiện nổi tiếng khác vào thời nhà Thanh là Hội trường Phổ Cát, có nguồn gốc từ "Nhà từ thiện sửa đường" bên ngoài Cổng Quảng Ninh ở Bắc Kinh, được sử dụng để giải cứu những công nhân nhập cư đến Bắc Kinh để xây dựng đường và trở thành những người ăn xin trên đường phố. Hà Trác, người được liệt kê vào "Tứ đại thư pháp" vào đầu thời nhà Thanh, đã viết bài "Phổ cát đường ký", trong đó ông tin rằng trại trẻ mồ côi do nhà nước thành lập là dành cho những người nghèo khổ và bất hạnh, và không ai có nghị lực sẽ muốn đến đó. Hơn nữa, nơi này chỉ dành cho người dân địa phương, còn những người nghèo phải rời bỏ nhà cửa chỉ có thể chết ven đường. Đây cũng là lý do tại sao tờ báo Pujitang ở Bắc Kinh, một tờ báo hoàn toàn do tư nhân điều hành, được thành lập.
Ung Chính, khi đó vẫn còn là hoàng tử, đã tặng 1.000 lạng bạc cho Phổ Cát Đường. Sau khi lên ngôi, ông đã ban hành chiếu chỉ ra lệnh sửa chữa các nhà trẻ và Phổ Cát Đường trên khắp cả nước. Sau đó, vai trò của các viên chức nhà nước trong việc thành lập và vận hành Phổ Cát Đường ngày càng mở rộng, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều Phổ Cát Đường giống với trại trẻ mồ côi ban đầu, cũng như nhiều "dự án hình ảnh" do các quan chức địa phương lập ra để tìm kiếm uy tín. Nhưng nhận thức chung vào thời điểm đó là trại trẻ mồ côi thuộc sở hữu nhà nước, trong khi Pujitang do tư nhân điều hành. Vào cuối thời nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, chính phủ không có thời gian để chăm lo trợ cấp xã hội nên các tổ chức từ thiện tư nhân đóng vai trò lớn hơn.
Hội trường Fengtian Tongshan là tổ chức từ thiện lớn nhất ở Đông Bắc Trung Quốc thời hiện đại. Sau khi thành lập nước Trung Hoa Mới, phần chính của nó được chuyển đổi thành Bệnh viện Chữ thập đỏ Thẩm Dương.
Hiện đại hóa hoạt động từ thiện truyền thống
Các hội từ thiện và nhà từ thiện vào cuối thời nhà Thanh đã sở hữu những đặc điểm của các tổ chức từ thiện hiện đại. Về mặt triết lý cứu trợ, các tổ chức như vậy không chỉ tập trung giải quyết vấn đề lương thực, quần áo cho những “người hưởng lợi” mà còn nhấn mạnh đến việc bồi dưỡng kỹ năng sinh tồn cho họ, và bắt đầu hạ thấp hoặc thậm chí xóa bỏ các yêu cầu về đạo đức đối với những người hưởng lợi; Về mặt hoạt động tổ chức, khả năng can thiệp của chính quyền vào công việc từ thiện và hội từ thiện vào cuối thời nhà Thanh ngày càng suy yếu, tính tự chủ của các hội từ thiện và hội từ thiện tư nhân bắt đầu tăng lên, quản lý trở nên khoa học và chuẩn mực hơn, bắt đầu mang đặc điểm của doanh nghiệp hiện đại.
Các hội trường và tổ chức từ thiện vào cuối thời nhà Thanh và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc cũng chịu ảnh hưởng rõ ràng từ các tổ chức từ thiện nước ngoài của châu Âu và châu Mỹ. Vào cuối thế kỷ 19, các tờ báo như Shenbao và Eastern Magazine đã so sánh "việc tốt" của Trung Quốc với hoạt động từ thiện ở châu Âu và Hoa Kỳ, cho rằng hoạt động từ thiện của châu Âu và Hoa Kỳ có lợi thế về động lực và phương pháp thể chế, đồng thời ủng hộ "hiện đại hóa việc tốt". Và "việc làm tốt" thường được thay thế bằng thuật ngữ "từ thiện".
Sau Chiến tranh Trung-Nhật và Chiến tranh Nga-Nhật, một lượng lớn người Nhật đã đến Trung Quốc. Trong số những người này, một học giả tên là Furuya Seiichi đã công bố "Báo cáo điều tra về Fengtian Tongshan Hall" vào năm 1927. Điều khiến ông ngạc nhiên là, so với hầu hết các tổ chức từ thiện ở Nhật Bản dựa vào nguồn tài trợ từ một nhà từ thiện nào đó, Fengtian Tongshan Hall rõ ràng là một cơ sở toàn diện với khối lượng tài sản lớn tập trung vào bất động sản, điều này có thể cho phép nó tồn tại mãi mãi. Trên thực tế, nguồn gốc của Đường Phong Thiên Thông Sơn là Cục Đậu Bò được thành lập vào năm Quang Tự thứ bảy (1881). Sau đó, nơi này phát triển thành một cơ sở toàn diện gồm 15 khoa, trong đó có Jiliangso (cơ sở cải tạo dành cho gái mại dâm), trại trẻ mồ côi, trường dạy nghề cho người nghèo, nhà máy công nghiệp dành cho phụ nữ và Bệnh viện Chữ thập đỏ. Điều này liên quan chặt chẽ đến thực tế là các hội từ thiện của Trung Quốc và các tổ chức từ thiện do chính phủ điều hành đã học hỏi từ Châu Âu và Hoa Kỳ. Đồng Nhân Đường ở Thượng Hải, Hưng Nhân Hội ở Ninh Ba, Phụ Ái Đường ở Quảng Đông và nhiều tổ chức khác đều là những tổ chức từ thiện toàn diện như vậy.
Điều khiến Cổ Gia Thành cũng ngạc nhiên nữa là “sự tự quản” của Đồng Sơn Đường, đạt được thành quả một cách độc lập và suôn sẻ.
Người đồng hương của ông là Phó Mã Cẩn tin rằng cuối triều đại nhà Minh và đầu triều đại nhà Thanh, khi các hiệp hội từ thiện và hội trường từ thiện lan rộng, là thời kỳ hiếm hoi trong lịch sử Trung Quốc mà các hiệp hội từ thiện được thành lập. Hoạt động từ thiện đầu tiên xuất hiện ở các thành phố, nơi tập trung nhiều người giàu có và đông đúc. Tăng trưởng kinh tế và dòng người đổ về thành phố trở thành điều kiện tiên quyết.
Nếu chúng ta định nghĩa một tổ chức từ thiện hay một hội trường từ thiện, thì một tổ chức từ thiện là một hiệp hội tự do mà các cá nhân tự nguyện tham gia nhằm mục đích thực hiện các hoạt động từ thiện, trong khi hội trường từ thiện là nơi đặt văn phòng của tổ chức từ thiện và là nơi thực sự thực hiện các hoạt động từ thiện. Phó Mã Cẩn tin rằng chính nhờ truyền thống của các hội từ thiện và nhà từ thiện mà các “xã hội kiểu mới” chưa từng có theo đuổi những mục tiêu chung mới đã xuất hiện.
Năm 1912, Chu Hữu Vũ, một người gốc Thượng Hải, đã xuất bản cuốn "Tinh thần từ thiện và tình anh em tại Trung Quốc" tại Hoa Kỳ. Ông nhắc đến từ "công cộng" nhiều lần và tin rằng những liên minh tự phát của người dân đã tạo nên quyền tự chủ tại địa phương trong thành phố. Chính tinh thần bác ái và tình anh em vốn có của người Trung Hoa đã hỗ trợ cho quyền tự chủ địa phương này, có thể trở thành nền tảng của một quốc gia dân chủ chắc chắn sẽ xuất hiện sau này.
Bài viết này được đăng lại với sự cho phép của Public Welfare Times.
Đây là nội dung của số báo "Phòng học số 1" này. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào muốn thảo luận, bạn có thể để lại tin nhắn và chúng ta có thể cùng nhau nghiên cứu.