Bảo tồn ex situ bảo vệ loài nai sừng tấm của chúng ta khỏi bị lạc Bảo tồn ex situ bảo vệ loài nai sừng tấm của chúng ta khỏi bị lạc

Bảo tồn ex situ bảo vệ loài nai sừng tấm của chúng ta khỏi bị lạc

Sản xuất bởi: Science Popularization China

Sản xuất bởi: Bai Jiade, Zhang Shumiao, Li Yiping, Chen Qi (Trung tâm Thực nghiệm Sinh thái Nai sừng tấm Bắc Kinh)

Nhà sản xuất: Trung tâm thông tin mạng máy tính, Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc

Vào khoảng năm 1900, loài đặc hữu, hươu Elaphus, từng phân bố rộng rãi ở đất nước tôi, đã tuyệt chủng ở Trung Quốc, quê hương của chúng.

Để phục hồi loài động vật quý hiếm này, Trung Quốc đã tái du nhập 77 con nai sừng tấm từ Anh từ năm 1985 đến năm 1987. Đến nay, quần thể nai sừng tấm đã tăng lên hơn 10.000 con và khu vực phân bố cũng tăng từ 2 khu vực tái du nhập ban đầu lên 83 khu vực. Sự phục hồi của quần thể nai sừng tấm đã trở thành một ví dụ thành công về bảo tồn động vật hoang dã ngoài môi trường ở đất nước tôi.

Nai sừng tấm (Nguồn ảnh: album Elk Park)

Cái gọi là "bảo tồn ex situ", đúng như tên gọi của nó, là một phương pháp bảo tồn nhằm bảo vệ hiệu quả một loài bằng cách di chuyển loài đó từ nơi này sang nơi khác phù hợp với môi trường sống của chúng để chúng có thể tồn tại và sinh sản. Trong quá trình thực tế, công tác bảo tồn di sản văn hóa gặp phải nhiều khó khăn và vấn đề.

Tại sao bảo tồn ngoài môi trường lại cần thiết?

Cần nhấn mạnh rằng chiến lược tốt nhất để bảo tồn đa dạng sinh học là bảo vệ quần thể loài và hệ sinh thái của chúng ở môi trường sống ban đầu, tức là bảo tồn tại chỗ hoặc bảo vệ tại chỗ.

Tuy nhiên, bảo tồn tại chỗ khó có thể hiệu quả khi quần thể cuối cùng của một loài quý hiếm quá nhỏ để duy trì, khi các biện pháp bảo tồn không ngăn chặn được sự suy giảm của chúng trong tự nhiên hoặc khi những cá thể cuối cùng còn lại đã ở bên ngoài các khu bảo tồn.

Trong trường hợp này, cách tốt nhất để ngăn chặn sự tuyệt chủng của chúng là đưa những cá thể này vào môi trường phù hợp với môi trường sống của chúng và bảo vệ chúng. Chiến lược bảo tồn này được gọi là bảo tồn ngoài môi trường.

Nguồn ảnh đàn nai sừng tấm: Album Elk Park

Bảo tồn ex situ có liên quan đến bảo tồn in situ và là phương pháp bảo vệ bổ sung cho bảo tồn in situ. Loại hình bảo tồn này cho phép bảo tồn, phân tích, thử nghiệm và sinh sản các loài động vật quý hiếm hoặc bị đe dọa trong thời gian dài.

Nguyên tắc thực hiện bảo tồn ex situ do Liên minh Bảo tồn Thế giới đưa ra là khi quần thể hoang dã của một loài có nguy cơ tuyệt chủng (đặc biệt là các loài cao và lớn) dưới 1.000, thì cần thiết lập một quần thể tự duy trì trong điều kiện sinh sản nhân tạo.

Những chú nai đang ăn (Nguồn ảnh: Xinhuanet)

Do đó, bảo tồn ngoài môi trường thường là biện pháp bảo tồn rất quan trọng và cần thiết đối với các loài có quần thể đang suy giảm mạnh. Đối với các loài chưa bị đe dọa nghiêm trọng, việc thiết lập quần thể bảo tồn ex situ cũng sẽ giúp các nhà khoa học nhanh chóng có được tài liệu nghiên cứu khoa học, giảm việc khai thác tài nguyên hoang dã và thúc đẩy việc sử dụng bền vững tài nguyên.

Một mặt, bảo tồn ex situ cung cấp cho các loài khó sinh tồn trong tự nhiên cơ hội sống sót cuối cùng, bảo vệ quần thể các loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng.

Mặt khác, nó còn bảo tồn nguồn gen dự trữ cho các loài quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng, cung cấp nguồn giống để tạo ra các quần thể mới và tạo điều kiện cho các nhà khoa học tiến hành nhiều thí nghiệm và nghiên cứu khoa học khác nhau;

Không chỉ vậy, các khu bảo tồn ex situ thường còn cung cấp các buổi trưng bày và trải nghiệm cho công chúng, có chức năng trưng bày thiên nhiên, giáo dục khoa học và trải nghiệm sinh thái.

Vậy, bảo tồn ngoài môi trường được thực hiện cụ thể như thế nào? Trước tiên chúng ta hãy xem xét trường hợp phục hồi quần thể nai sừng tấm.

Nai sừng tấm (Nguồn ảnh: www.biolib.cz)

Quá trình bảo tồn ex situ loài nai sừng tấm ở đất nước tôi

Hươu Elaphe ở Trung Quốc đã trải qua một hành trình huyền thoại về quần thể phát triển mạnh mẽ, tuyệt chủng tại địa phương, di cư ra nước ngoài, tái du nhập, trẻ hóa quần thể, di dời và định cư, thả về tự nhiên và hình thành quần thể tự nhiên.

Quy trình bảo tồn nai sừng tấm ngoài tự nhiên của đất nước tôi đã được công nhận trên toàn thế giới và được biết đến là "Mô hình Trung Quốc về bảo tồn động vật hoang dã thế giới". Đây là mô hình bảo tồn ngoài tự nhiên và trả lại các loài sinh học về với thiên nhiên trên thế giới, đồng thời đóng góp trí tuệ Trung Hoa vào việc bảo vệ các loài động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng trên toàn thế giới.

Đàn nai sừng tấm (Nguồn ảnh: Album Elk Park)

Loài nai sừng tấm bắt đầu phát triển vào thời kỳ Pleistocene và đạt đến thời kỳ hoàng kim vào giữa thời kỳ Holocene. Sau thời nhà Thương và nhà Chu, quần thể nai sừng tấm dần suy giảm và tuyệt chủng ở Trung Quốc vào khoảng năm 1900.

Sự trở lại của loài nai sừng tấm về Trung Quốc bắt đầu vào năm 1965. Vào năm 1965 và 1973, Hiệp hội Động vật học London đã tặng bốn cặp nai sừng tấm cho Trung Quốc và chúng được nuôi tại Vườn thú Bắc Kinh. Năm 1980, Vườn thú Cáp Nhĩ Tân đã mua được một cặp nai sừng tấm từ Canada thông qua hoạt động trao đổi động vật.

Tuy nhiên, loài nai sừng tấm này đã không sinh sản thành công ở cả hai vườn thú này. Các nhà khoa học Trung Quốc và nước ngoài sau đó đã khởi xướng sáng kiến ​​đưa loài nai sừng tấm trở về môi trường sống bản địa và khôi phục quần thể hoang dã của chúng. Sáng kiến ​​này đã nhận được phản hồi tích cực và sự ủng hộ từ chính phủ Trung Quốc và Anh.

Vào năm 1985, chính phủ Trung Quốc đã khởi động một dự án tái du nhập loài nai sừng tấm. Vào năm 1985 và 1987, 38 con nai sừng tấm (5 con đực và 33 con cái) đã được đưa từ Tu viện Woburn ở Anh đến và nuôi trong môi trường bán tự nhiên tại Công viên nai sừng tấm Nanhaizi ở Bắc Kinh; Năm 1986, Khu bảo tồn nai sừng tấm Dafeng ở tỉnh Giang Tô đã đưa 39 con nai sừng tấm (13 con đực và 26 con cái) từ 9 sở thú ở Anh vào.

Một đàn nai sừng tấm (Nguồn ảnh: Cơ sở giáo dục khoa học Trung tâm thí nghiệm sinh thái nai sừng tấm Bắc Kinh)

Có hai mục tiêu cho việc tái du nhập loài nai sừng tấm: một là khôi phục quần thể bằng cách đưa nai sừng tấm từ nước ngoài về; cách còn lại là thả những con nai sừng tấm được trẻ hóa đang bị nuôi nhốt vào môi trường hoang dã thích hợp tại khu vực phân bố trước đây của chúng để phục hồi quần thể hoang dã.

Để đạt được mục đích này, những người bảo tồn nai sừng tấm đã xây dựng chiến lược "ba bước":

Bước đầu tiên là khôi phục quần thể nai sừng tấm để có đủ số lượng cơ bản;

Bước thứ hai là tiến hành xây dựng quần thể ex situ, phân tán có hệ thống đàn nai sừng tấm đến những nơi thích hợp trên cả nước để tiếp tục mở rộng quần thể, tăng diện tích phân bố, cải thiện tính đa dạng di truyền của đàn nai sừng tấm;

Bước thứ ba là khôi phục quần thể hoang dã có khả năng tự duy trì bằng cách thả nai sừng tấm vào tự nhiên thông qua quá trình huấn luyện tái hoang dã, cho phép chúng thích nghi hoàn toàn với môi trường hoang dã và đạt được khả năng tự sinh sản của quần thể hoang dã.

1. Giai đoạn trẻ hóa dân số

Công viên nai sừng tấm Nam Hải Tử Bắc Kinh và Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nai sừng tấm Đại Phong Giang Tô đã đảm nhiệm nhiệm vụ phục hồi quần thể nai sừng tấm ban đầu được du nhập.

Công viên nai sừng tấm Nam Hải Tử, Bắc Kinh là nơi xuất phát của mẫu vật mô hình và là nơi cuối cùng loài nai sừng tấm này tuyệt chủng. Trung tâm này tiên phong trong công tác nhân giống sau khi tái du nhập loài nai sừng tấm và đạt được mục tiêu giai đoạn đầu tiên của việc tái du nhập loài nai sừng tấm vào năm 1991 - đạt được quần thể cơ bản là 60-80 con nai sừng tấm ở Trung Quốc.

Đến năm 1996, số lượng nai sừng tấm ở Công viên nai sừng tấm Bắc Kinh đã đạt 250 con. Để tiếp tục mở rộng quần thể trong khi vẫn duy trì mối quan hệ cân bằng giữa quần thể nai sừng tấm và sức chứa của môi trường, Công viên nai sừng tấm Bắc Kinh tiếp tục xuất khẩu nai sừng tấm đến các môi trường sống phù hợp khác, duy trì số lượng nai sừng tấm trong công viên ở mức khoảng 150 con. Vào tháng 9 năm 2021, có 183 con nai sừng tấm ở Công viên nai sừng tấm Nam Hải Tử Bắc Kinh.

Sau khi đưa nai sừng tấm vào Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nai sừng tấm Đại Phong, Giang Tô, quần thể nai sừng tấm đã tăng lên theo từng năm, đạt gấp đôi số lượng ban đầu vào năm 1990 và 388 con vào năm 1996. Tính đến tháng 9 năm 2021, số lượng nai sừng tấm ở Đại Phong, Giang Tô đã vượt quá 6.000 con.

2. Giai đoạn di dời và thuộc địa hóa

Công viên nai sừng tấm Nam Hải Tử, Bắc Kinh và Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nai sừng tấm Đại Phong, Giang Tô đều đã xây dựng kế hoạch bảo vệ nai sừng tấm tại chỗ và sẽ vận chuyển nai sừng tấm đến các khu vực phân bố lịch sử khác theo thời gian.

Công viên nai sừng tấm Bắc Kinh bắt đầu xuất khẩu nai sừng tấm vào năm 1988 và tính đến cuối năm 2020, tổng cộng đã có 546 con nai sừng tấm được xuất khẩu; Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nai sừng tấm Đại Phong, Giang Tô bắt đầu xuất khẩu nai sừng tấm vào năm 1995 và tính đến cuối năm 2020, tổng cộng đã có 164 con nai sừng tấm được xuất khẩu.

Các khu bảo tồn di trú Milu như Khu bảo tồn thiên nhiên Hồ Bắc Shishou cũng đang dần xuất khẩu nai sừng tấm sau khi quần thể địa phương được tái thiết. Đến năm 2021, 83 quần thể nai sừng tấm bảo tồn ngoại vi đã được thành lập trên khắp cả nước.

3. Giới thiệu lại

Năm 1993, những con nai sừng tấm được xuất khẩu từ Công viên nai sừng tấm Bắc Kinh lần đầu tiên được huấn luyện thích nghi để thả về tự nhiên tại Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia nai sừng tấm Hồ Bắc Shishou. Vào năm 1994 và 2002, Công viên Nai sừng tấm Bắc Kinh đã vận chuyển lần lượt 34 và 30 con nai sừng tấm đến Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Nai sừng tấm Hồ Bắc Shishou để tiếp tục thực hiện thí nghiệm tái thả nai sừng tấm.

Năm 1998, sông Dương Tử bị ngập lụt. 34 con nai sừng tấm đang được huấn luyện hoang dã tại khu vực lõi của Khu bảo tồn thiên nhiên Shishou ở tỉnh Hồ Bắc đã lợi dụng trận lũ để trốn thoát đến ba khu vực lân cận là hồ Động Đình, Dương Bá Than và Tam Hà Loan ở tỉnh Hồ Nam. Tính đến cuối năm 2020, quần thể tự nhiên hình thành từ các đàn thoát ra ở ba khu vực đã vượt quá 200.

Năm 1998, Khu bảo tồn thiên nhiên nai sừng tấm Đại Phong đã chọn tám con nai sừng tấm để tiến hành thí nghiệm thả tự nhiên đầu tiên. Kể từ đó, Khu bảo tồn thiên nhiên Đại Phong tiếp tục thực hiện hoạt động thả nai về tự nhiên và đến năm 2020, quần thể nai hoang dã đã hình thành với 1.820 con, về cơ bản đã đạt được mục tiêu khôi phục quần thể nai hoang dã.

Năm 2018, 47 con nai sừng tấm đã được thả vào khu vực đất ngập nước hồ Bà Dương ở tỉnh Giang Tây. Hiện nay chúng đã có thể sinh sản tự do trong tự nhiên và đang có xu hướng lan rộng ra bên ngoài. Sự sinh sản thành công của loài nai sừng tấm ở khu vực hồ Bà Dương đánh dấu sự thành công trong việc tái thiết quần thể nai sừng tấm hoang dã tại khu vực phân bố ban đầu của hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc.

Nai sừng tấm bắt đầu tụ tập thành đàn lớn trên đồng cỏ hồ Poyang (Nguồn ảnh: Jiangxi Daily)

Chiến lược “Ba bước”: Kế hoạch xây dựng cộng đồng sự sống toàn cầu của Trung Quốc

Việc đưa loài nai sừng tấm trở lại các nỗ lực bảo tồn sẽ đưa loài đã tuyệt chủng gần một trăm năm trở lại môi trường sống bản địa của chúng. Đây là một dự án dài hạn và phức tạp với nhiều yếu tố không chắc chắn, và chưa có trường hợp thành công nào có thể học hỏi trên phạm vi quốc tế.

Nhiều thế hệ nhà nghiên cứu bảo vệ loài nai sừng tấm ở đất nước tôi không ngại khó khăn và luôn nỗ lực làm việc không ngừng. Dựa trên phân tích cẩn thận về lý do tại sao quần thể nai sừng tấm không thể phục hồi thành công sau khi được tái thả vào Vườn thú Bắc Kinh và Vườn thú Cáp Nhĩ Tân từ năm 1965 đến năm 1980, họ đã dũng cảm trong việc thám hiểm và tóm tắt liên tục, vượt qua nhiều khó khăn và giải quyết các vấn đề như tỷ lệ tử vong cao ở quần thể nhỏ, tỷ lệ sống sót và khả năng sinh sản thấp, khó khăn trong việc xác định kẻ thù tự nhiên và nhiều bệnh tật vô hình.

Nó không chỉ tóm tắt kinh nghiệm quản lý khoa học dựa trên các quy luật di truyền và sinh học quần thể mà còn khắc phục được ba khó khăn kỹ thuật lớn về nhân giống và bảo tồn hạt giống, quản lý thức ăn và phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh, đồng thời khám phá ra một bộ phương pháp thích hợp để tái thiết quần thể nai sừng tấm.

Việc bảo vệ thành công loài nai sừng tấm là minh chứng hùng hồn cho thực tế rằng “đất nước thịnh vượng thì loài nai sừng tấm cũng thịnh vượng”. Việc phục hồi quần thể, di dời và thả về tự nhiên đều là một phần trong chiến lược "ba bước" của Trung Quốc nhằm bảo vệ loài nai sừng tấm.

Dưới sự chỉ đạo của chiến lược "Ba bước" và gần 40 năm nỗ lực bền bỉ của Công viên Nai sừng tấm Bắc Kinh, Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Nai sừng tấm Đại Phong Giang Tô và các đơn vị khác, loài nai sừng tấm, một loài có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên ở đất nước tôi hơn 100 năm, đã tăng từ 77 con ban đầu lên hơn 10.000 con ngày nay.

Sau khi vượt qua được nút thắt di truyền của một quần thể ban đầu nhỏ và tình trạng cận huyết cao, loài nai sừng tấm đã có thể lan rộng khắp cả nước, về cơ bản đã bao phủ toàn bộ phạm vi phân bố ban đầu của loài nai sừng tấm, tiến gần đến khu vực phân bố lịch sử và hoàn toàn thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng của quần thể. Điều này cũng khẳng định rằng chiến lược "ba bước" nhằm phục hồi quần thể nai sừng tấm hoang dã là mô hình hiệu quả để bảo vệ động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới.

Việc bảo tồn nai sừng tấm ngoài tự nhiên là một di tích trong lịch sử bảo tồn động vật hoang dã ở đất nước tôi. Nó đã góp phần xây dựng nền văn minh sinh thái và một Trung Quốc tươi đẹp, đồng thời cũng góp phần đưa Trung Quốc vào giải pháp xây dựng cộng đồng sống trên Trái Đất.