Tác giả: Vương Quán Quần, Phan Hạo Thần, Phương Tường, Lưu Vân, Đàm Triều (Viện Địa chất và Cổ sinh vật học Nam Kinh, Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc)
Bài viết được trích từ tài khoản chính thức của Viện Hàn lâm Khoa học (ID: kexuedayuan)
——
Trong số trước, chúng ta đã nói về vinh quang của Nautiloids kỵ binh hạng nặng trong Kỷ Ordovic (nhấp vào đây nếu bạn bỏ lỡ!), điều này đã mang lại thời kỳ hoàng kim đầu tiên cho các loài chân đầu. Tuy nhiên, cũng giống như kỵ binh bọc thép cuối cùng đã bị loại bỏ vì sự vụng về và chi phí cao, loài nautiloidea "Ngôi chùa sắt" cũng dần suy giảm trước sự tuyệt chủng hàng loạt vào cuối kỷ Ordovic và các loài động vật có xương sống tiến hóa thành hàm vào kỷ Silur. Tuy nhiên, động vật chân đầu không bỏ cuộc. Họ tiếp tục tự hoàn thiện mình, giống như kỵ binh Mông Cổ, hình thức kỵ binh cuối cùng trong lịch sử, và tạo ra vinh quang cuối cùng của những chiến binh mặc áo giáp trước khi kỷ nguyên súng ống xuất hiện.
Được đặt theo tên hoa cúc, các loài amonit, sinh ra vào kỷ Devon, thiên đường của loài cá, đã bắt đầu thách thức dữ dội các loài động vật có xương sống thống trị mới nổi trong 300 triệu năm tiếp theo. Thế giới đại dương vào thời điểm đó chắc chắn sẽ "đầy rẫy áo giáp vàng".
Trong chiến tranh, áo giáp là tốt nhất
Cúc đá ra đời vào thời kỳ Devon. Loài chân đầu mới này đã cải thiện lớp giáp của tổ tiên loài Nautilus. Nó không còn là hình ngôi chùa thẳng nữa mà là hình cong và xoắn ốc, giúp tối đa hóa tính linh hoạt của chúng khi bơi. Đồng thời, các vách ngăn bắt đầu cong lại và biến dạng, tạo cho amonit những đường khâu cực kỳ phức tạp và đẹp mắt. Ở giai đoạn cuối, các đường khâu phức tạp đến mức chỉ có thể nhìn thấy bằng kính lúp (Hình 1). Các đường khâu của amonit được chia thành loại goniatitic, ceratitic và amonit theo hình dạng của chúng (Hình 2). Đây là đặc điểm hóa thạch chính để phân loại các loài amonit và phân biệt chúng với các loài chân đầu khác.
Hình 1 Đường khâu amonit đẹp
(Nguồn ảnh: Tianmu Geoscience, Shan Huachun)
Hình 2 Sự thay đổi trong đường khâu của amonit
(Nguồn ảnh: Bảo tàng Hui Shifan, Đại học Hong Kong)
Cấu trúc phân vùng phức tạp khác thường này làm cho lớp vỏ của các loài amonit có khả năng chịu áp lực tốt hơn. Ngoài khả năng chống lại các mối đe dọa từ kẻ thù tự nhiên, nó còn có thể chịu được áp lực nước lớn hơn. Đồng thời, các nếp gấp phức tạp của thành cho phép phần mềm của amonit tích hợp chặt chẽ hơn với phần cứng của thành, do đó cải thiện độ ổn định của chính nó. Những thay đổi có mục tiêu này đã cải thiện tính linh hoạt và khả năng chịu áp lực của Ammonite. Giống như kỵ binh Mông Cổ trong lịch sử, họ phát huy tối đa tính linh hoạt của kỵ binh, đè bẹp các kỵ binh thiết can của châu Âu cùng thời, đồng thời đánh bại nhà Tấn vốn có Tháp Thiết mà không gặp bất kỳ sự kháng cự nào.
Phục hồi amonit (Nguồn ảnh: Nobu Tamura)
Ngoài việc thay đổi về hình dạng, amonit còn làm dày thêm bề mặt vỏ của chúng. Một số thậm chí còn làm dày và thô các đường sinh trưởng để tạo thành các gân sinh trưởng trông giống như hoa cúc đang nở (Hình 3), do đó có tên là amonit. Một số loài có gai và khối u mọc trên vỏ (Hình 4), khiến chúng trông hung dữ và kỳ quái hơn. Thậm chí còn có những loại mã não đẹp và đầy màu sắc (Hình 5). Do màu sắc cấu trúc của aragonit trên bề mặt vỏ của nó, mã não được Liên đoàn Trang sức Quốc tế công nhận là một loại đá quý.
Hình 3: Các loài amonit trông giống hoa cúc
(Nguồn ảnh: Tianmu Geoscience, Shan Huachun)
Hình 4: Crioceratites nolani có gai
(Nguồn hình ảnh: Wikimedia: Tác giả Teresa Martin)
Hình 5: Đội quân danh dự ở Ammonite
(Nguồn ảnh: do tác giả chụp)
Những thay đổi trên vỏ amonit có phần giống với nghề thủ công làm áo giáp da trong lịch sử Trung Quốc. Một lớp sơn mài dày được phủ lên bộ giáp da đã hoàn thiện, không chỉ tăng cường khả năng phòng thủ mà còn chống ăn mòn và đẹp mắt. Vì vậy, cảnh các đội quân lớn thời xưa chiến đấu chủ yếu là biển người da đen và da đỏ. (Mặc dù sơn mài thô lúc đầu có màu trắng sữa, nhưng sau khi oxy hóa, nó sẫm màu thành màu hạt dẻ và hầu như không nhận thấy khi thêm các sắc tố khác, vì vậy đỏ và đen là màu chủ đạo của đồ sơn mài và áo giáp da, Hình 6). Và nếu chúng ta quay trở lại đại dương của Kỷ Trung sinh, chúng ta có thể thấy đội quân danh dự đầy màu sắc lộng lẫy nhất của loài ammonite tuần tra trên biển với những ngọn đèn sáng chói.
Hình 6 Trên cùng: Áo giáp da được khai quật từ lăng mộ của Tăng Hầu Nghĩa (Nguồn: xem hình mờ)
Bên dưới: Chiến binh đất nung và ngựa màu của Hoàng đế Tần Thủy Hoàng (Nguồn: Trang web chính thức của Bảo tàng Lăng mộ Tần Thủy Hoàng)
Đứng dậy nơi bạn ngã
Sau khi động vật có xương sống phát triển hàm, chúng bắt đầu tiêu diệt các loài động vật có lớp giáp dày như động vật thân mềm và động vật chân đốt. Dưới áp lực nặng nề như vậy, nhiều đơn vị phân loại không còn lựa chọn nào khác ngoài việc mở ra chiến trường thứ hai. Ví dụ, các loài chân khớp từng thống trị kỷ Cambri đã thành công trong việc theo chân thực vật lên đất liền và thậm chí là những loài đầu tiên thống trị bầu trời. Các loài chân bụng, anh em tốt của động vật chân đầu (họ hàng gần nhất với động vật chân đầu trong số các loài động vật thân mềm), cũng đổ bộ lên bờ và thành lập quân đội riêng của chúng. Mặc dù sau đó động vật có xương sống đã đuổi theo và giết chết chúng trên cạn và trên không, nhưng đó lại là một câu chuyện khác.
Tuy nhiên, tinh thần trốn tránh này bằng cách nằm xuống bất cứ nơi nào bạn ngã dường như không hề ảnh hưởng đến các loài chân đầu của chúng ta. Chúng quyết tâm chiến đấu đến cùng với các loài động vật có xương sống dưới đại dương. Ý tưởng về việc đào sâu chiến tranh trên biển đã tạo nên tinh thần ma quỷ bất khuất của loài chân đầu.
Người Ammonite, được trang bị áo giáp mới, bắt đầu dần thay thế tổ tiên của họ là Nautilus và tham gia vào cuộc chiến trên đại dương. Những kỹ năng linh hoạt hơn và bộ giáp có thể thay đổi của chúng khiến cho loài amonit không còn là những khối sắt kỵ binh hạng nặng sẵn sàng tử trận nữa mà là kỵ binh hạng nhẹ đến rồi đi như gió và có một mức độ phòng thủ nhất định. Giống như cuộc chiến tranh chinh phục theo phong cách Đại nhảy vọt của kỵ binh Mông Cổ, các loài cúc đá sớm bắt đầu chiếm đóng những vùng rộng lớn trên không gian đại dương và trải qua thời kỳ hoàng kim đầu tiên vào cuối kỷ Paleozoi (kỷ Devon đến kỷ Permi). Chúng có số lượng lớn và tiến hóa rất nhanh nên thường được dùng để so sánh các tầng lớp.
Sự phát triển của loài cúc đá sớm thu hút sự chú ý của các loài động vật có xương sống. Một số động vật có xương sống chuyên dùng vũ khí là hàm, và siêu "đồ mở hộp" Helicoprion đã xuất hiện (Hình 7). Tuy nhiên, điều này không làm cho quân Ammon rút lui. Thay vào đó, họ ngày càng trở nên can đảm hơn. Phải đến cuối kỷ Permi, sự kiện tuyệt chủng lớn nhất trong toàn bộ kỷ nguyên địa chất mới xảy ra, với sự mất mát của hơn 95% các loài sinh vật biển. Thế giới sinh học đã bị Mẹ Trái Đất thanh lọc một cách tàn nhẫn, và các loài cúc đá cũng không ngoại lệ. Thời kỳ hoàng kim đầu tiên của loài amonit đã kết thúc, và cùng với sự suy tàn của loài amonit, những dụng cụ mở hộp chuyên dụng này cũng tuyệt chủng.
Hình 7 Trên cùng: Cái mở hộp của đại dương, Helicoprion
(Nguồn ảnh: prehistoric-wildlife.com)
Bên dưới: Helicoprion kéo thịt amonit ra bằng cách mở và đóng răng của nó
(Nguồn hình ảnh: Ramsay et al., 2014)
Anh hùng xuất hiện trong thời kỳ khó khăn, trong khi kẻ ngốc thường xuất hiện trong thời kỳ thịnh vượng
Bạn có nghĩ câu chuyện kết thúc ở đây không? Không, loài amonit cho chúng ta biết ý nghĩa của câu "con rết vẫn còn sống ngay cả sau khi chết". Vào đầu kỷ Trias sau cuộc Đại thanh lọc, khi thiên nhiên vẫn chưa phục hồi hoàn toàn, các loài amonit bắt đầu xuất hiện trở lại trong tầng Trias sớm, trở thành một trong những sinh vật biển phục hồi sớm nhất cùng với các loài nhuyễn thể.
Kỷ Trung sinh tiếp theo, mặc dù mọi người đều quen thuộc với động vật có xương sống. Khủng long và thằn lằn bay vui đùa trên đất liền và trên bầu trời, và cũng có những con quái vật lang thang dưới đại dương. Các loài Ichthyosaur, Plesiosaur và Mosasaur đang tàn phá biển cả. Tuy nhiên, các loài amonit vẫn tiếp tục phát triển mạnh ở đại dương kể từ khi chúng hồi sinh và không bao giờ gặp bất lợi khi đối mặt với các loài động vật có xương sống lớn trong suốt kỷ Trung sinh.
Người Ammon, với bộ giáp tuyệt đẹp, thực sự đã đạt được mục tiêu "bao phủ toàn bộ thành phố bằng áo giáp vàng". Sự thịnh vượng của họ cũng mang lại cho Kỷ Trung sinh biệt danh "Thời đại Ammonite" bên cạnh "Thời đại Khủng long" (Hình 8). Tuy nhiên, thời kỳ hòa bình và thịnh vượng đã khiến người Ammon trở nên hơi kiêu ngạo. Một số loài amonit không phổ biến bắt đầu phát triển tự nhiên, phát triển mạnh và thậm chí tạo thành hình dạng giống như phân (nghe giống như vậy, Hình 9).
Hình 8 Biển Ammonites (Nguồn: cluelessconscience.com bản quyền: Robbie Sidhu)
Hình 9 Amonit dị hình, xoắn lại thành hình dạng bay, được bảo quản tại Bảo tàng Khoa học Tự nhiên Houston
(Nguồn hình ảnh: Wikipedia-Daderot)
Mọi thứ vẫn còn rất quen thuộc, và loài amonit tự mãn lại một lần nữa gặp phải sự thanh lọc lớn lao của thiên nhiên. Lần này, con tàu không may mắn như vậy và chìm hoàn toàn xuống đáy biển tối đen. Vương triều Ammonite, cùng với Vương triều Dinosaur, đã bị chôn vùi một cách tàn nhẫn bởi sức mạnh không thể cưỡng lại của thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong đại dương hoang vắng sau khi bị hành hạ bởi va chạm thiên thạch và phun trào núi lửa, niềm tự hào cuối cùng của Đế chế chân đầu, loài bạch tuộc, đang nhìn thế giới đang phục hồi bằng đôi mắt sáng ngời của mình. Kỷ nguyên không cần áo giáp đang đến gần. Hẹn gặp lại các bạn vào lần tới khi con rồng cởi bỏ bộ giáp nhé!
Tài liệu tham khảo:
[1] Jason B. Ramsay, Cheryl D. Wilga, Leif Tapanila, et al., 2014. Ăn bằng cưa thay cho hàm: Hình thái chức năng của hàm và vòng răng ở Helicoprion davisii. TẠP CHÍ HÌNH THÁI HỌC 00, 1–18.
[2] Shu-zhong Shen, Samuel A. Bowring, Sự tuyệt chủng hàng loạt cuối kỷ Permi: một thảm họa vẫn chưa được giải thích, National Science Review, Tập 1, Số 4, Tháng 12 năm 2014, Trang 492-495, https://doi.org/10.1093/nsr/nwu047
[3] Hứa Hán Khuynh. Sự tiến hóa sinh học từ sự trỗi dậy và suy tàn của động vật chân đầu, 2015. Sự tiến hóa sinh học. (4): 33-40.