Tôi đã nói về vấn đề trí nhớ thời thơ ấu của mọi người nhiều lần trong quá khứ, nhưng thấy nhiều bạn bè trên Internet vẫn còn bối rối và quan tâm đến vấn đề này, tôi sẽ tóm tắt lại một cách ngắn gọn và cố gắng làm rõ hơn.
Cả triết học và sinh lý học đều tin rằng ý thức là một cơ chế độc đáo của não bộ con người và là sự phản ánh thế giới thông qua não bộ con người. Câu này có nghĩa là ý thức là sự hiểu biết của con người về thế giới. Nếu không có thế giới, sẽ không có gì trong ý thức của con người.
Và trí nhớ là một phần của ý thức con người. Nói một cách sâu xa hơn, ý thức bao gồm nhận thức về bản thân, trí nhớ trải nghiệm và tư duy logic. Tự nhận thức là cơ sở của mọi ý thức và do đó là cơ sở của trí nhớ. Nghĩa là, nếu không có nhận thức về bản thân thì sẽ không có trí nhớ kinh nghiệm và không có tư duy logic.
Nhưng ngay cả khi có nhận thức về bản thân, suy nghĩ và trí nhớ vẫn cần có công cụ. Nếu không có những công cụ này, con người vẫn khó có thể hình thành tư duy và trí nhớ.
Vậy, nhận thức về bản thân là gì?
Tự nhận thức cũng có thể được gọi là nhận thức về bản thân. Nó không chỉ có ở con người mà chỉ có con người mới có khả năng này rõ ràng và trưởng thành nhất. Nói một cách dễ hiểu, tự nhận thức là sự hiểu biết rằng mình là chính mình và khác biệt với những người và vật khác.
Theo cách này, chúng ta có thể suy ra rằng nếu không có nhận thức về bản thân, nếu chúng ta thậm chí không thể phân biệt được chính mình, chứ đừng nói đến việc phân biệt mình với người khác hoặc các vật thể khác, thì làm sao chúng ta có thể suy nghĩ và ghi nhớ?
Sự tự nhận thức của con người được hình thành từ khi còn trong bụng mẹ, điều đó có nghĩa là nó đã dần dần được khắc ghi vào gen trong hàng triệu năm tiến hóa của loài người. Nhưng loại di truyền này chỉ là di truyền gen, không biểu hiện ngay khi sinh ra mà dần dần biểu hiện khi trẻ lớn lên và trưởng thành.
Điều này cũng giống như một số người có khiếm khuyết về gen, có thể gây ra một số bệnh nhất định, nhưng các bệnh do những khiếm khuyết này gây ra sẽ chỉ xuất hiện khi người đó già đi. Các nghiên cứu và thí nghiệm đã chỉ ra rằng nhận thức về bản thân của con người chỉ xuất hiện dần dần sau 18 tháng sau khi sinh và chỉ trở nên trưởng thành và rõ ràng thông qua quá trình tích lũy dần dần kinh nghiệm trong việc hiểu biết thế giới và được bổ sung bằng các công cụ tư duy.
Nếu bạn có con nhỏ ở nhà, bạn có thể làm một thí nghiệm nhỏ trước và sau khi trẻ dưới 18 tháng tuổi. Phương pháp đơn giản là: khi trẻ không biết hoặc đang ngủ, hãy đánh dấu một số dấu hiệu rõ ràng ở đâu đó trên cơ thể mà trẻ không thể nhìn thấy trực tiếp, sau đó cho trẻ nhìn thấy những dấu hiệu này trong gương để xem trẻ có thể tìm ra dấu hiệu trên cơ thể mình dựa trên những dấu hiệu trẻ nhìn thấy trong gương hay không.
Nếu bạn có phản ứng như thế này, nghĩa là bạn có nhận thức về bản thân, nếu không thì không.
Thí nghiệm này được gọi là "thử nghiệm gương". Các nhà khoa học đã tiến hành thử nghiệm phản chiếu trên một số loài động vật. Chỉ có một số ít động vật vượt qua được bài kiểm tra gương. Chỉ có đười ươi, khỉ đuôi dài, cá heo mũi chai, cá voi sát thủ, voi, chim ác là châu Âu, quạ, chim bồ câu, lợn và các loài động vật khác vượt qua được thí nghiệm, điều này cho thấy chúng có một mức độ tự nhận thức nhất định.
Điều buồn cười là trong thử nghiệm soi gương trên lợn, có 8 con lợn được thử nghiệm, 7 con vượt qua thử nghiệm soi gương, nhưng chỉ có một con quá ngu đến mức trượt, nên mọi người gọi con lợn này là "lợn ngu".
Tuy nhiên, vì phần lớn lợn đều vượt qua bài kiểm tra nên không thể đổ lỗi cho toàn bộ "bộ tộc lợn" chỉ vì một "con lợn ngu ngốc". Người ta vẫn xếp lợn vào loại động vật "thông minh" có khả năng tự nhận thức. Kết quả là, một số cư dân mạng nước ngoài đã kêu gọi ngừng ăn thịt lợn. Khiến nhiều người ngạc nhiên là chó và mèo, những loài vật mà con người vẫn luôn cho là rất thông minh, lại không vượt qua được bài kiểm tra gương, tức là chúng còn ngốc hơn cả lợn.
Các nghiên cứu cho thấy trẻ sơ sinh thường không vượt qua được bài kiểm tra phản chiếu trước 18 tháng tuổi.
Công cụ của trí nhớ và tư duy là gì?
Mặc dù một số loài động vật có khả năng tự nhận thức, tại sao chúng không phát triển đến giai đoạn trưởng thành và trở nên thông minh hơn? Nguyên nhân là do sự khác biệt lớn nhất giữa các loài động vật khác và con người là, ngoài việc khả năng tự nhận thức được truyền qua gen của chúng không mạnh, chúng còn thiếu các công cụ để ghi nhớ và suy nghĩ.
Công cụ này là khái niệm ngôn ngữ và thời gian.
Sau hàng trăm ngàn năm tiến hóa và tích lũy kiến thức, con người đã hình thành nên một hệ thống ngôn ngữ phong phú và hoàn chỉnh. Trong tất cả các ngôn ngữ, tế bào quan trọng nhất là khái niệm. Khái niệm là những biểu hiện trừu tượng thu được bằng cách trừu tượng hóa bản chất chung của sự vật và tóm tắt chúng trong quá trình con người nhận thức thế giới, đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Chỉ cần những biểu hiện này xuất hiện trong tâm trí, con người có thể xây dựng được hình ảnh của sự vật.
Các khái niệm được hình thành trên cơ sở phân biệt rõ ràng bản thân với các đối tượng khác và do đó là mức độ biểu hiện cao của nhận thức về bản thân.
Nói một cách dễ hiểu, khái niệm là những từ ngữ khác nhau mà chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày, chẳng hạn như danh từ, động từ, tính từ, v.v., tất cả đều thuộc phạm trù khái niệm. Những khái niệm này là nền tảng cơ bản nhất của tư duy và nhận thức trí nhớ của con người, giống như những viên gạch xây tường. Nếu không có những khái niệm này, con người không thể hình thành tư duy và trí nhớ.
Mặc dù mọi người ở các khu vực và quốc gia khác nhau trên thế giới nói các ngôn ngữ khác nhau, họ vẫn có thể giao tiếp trôi chảy thông qua dịch thuật. Điều này là do con người đã hình thành được sự hiểu biết thống nhất về các khái niệm. Chẳng hạn như bàn, ghế đẩu, ô tô, tàu hỏa, nhà cửa, phòng ốc, ăn uống, đại tiện, đi làm, tan làm, v.v., bất kể người dân ở quốc gia nào hay sử dụng chữ viết và ngôn ngữ nào để giao tiếp, những khái niệm này về cơ bản đều giống nhau khi dịch sang tiếng Anh. Theo cách này, mọi người trên khắp thế giới có thể giao tiếp, và tư duy và trí nhớ của con người sẽ có vật liệu xây dựng.
Ngoài các khái niệm về ngôn ngữ, con người còn phát triển khái niệm về thời gian và thang thời gian thống nhất thông qua sự hiểu biết của họ về thiên nhiên trong hàng triệu năm, chẳng hạn như 365 ngày trong một năm, 24 giờ trong một ngày, 60 phút và 3.600 giây trong một giờ, v.v. Điều này làm cho giao tiếp và suy nghĩ có tổ chức và tuần tự hơn, đồng thời thêm nhãn thời gian vào suy nghĩ và trí nhớ.
Giống như một nhà kho lớn chứa đầy hàng hóa, thời gian chính là nhãn dán trên những hàng hóa này, giúp con người có thể tìm thấy thứ mình cần bất cứ lúc nào giữa vô vàn những món đồ lộn xộn.
Công cụ ngôn ngữ và thời gian là duy nhất chỉ có ở con người và không loài động vật nào khác có thể sánh được. Chỉ khi một người trưởng thành dần dần và không ngừng tăng lên kinh nghiệm hiểu biết về thế giới, ngôn ngữ và khái niệm về thời gian ngày càng trưởng thành thì nhận thức về bản thân mới ngày càng chín chắn và rõ ràng, tư duy và trí nhớ mới dần hình thành và ngày càng trưởng thành.
Một số người vẫn nói rằng động vật cũng có trí nhớ và suy nghĩ rõ ràng. Sau khi chứng kiến những quá trình phức tạp này, bạn có còn nghĩ vậy không?
Nếu không có ngôn ngữ và công cụ thời gian, chúng ta không thể suy nghĩ, chứ đừng nói đến việc hình thành trí nhớ.
Bây giờ, mỗi người chúng ta có thể tự kiểm tra xem liệu chúng ta có thể suy nghĩ và ghi nhớ mà không cần các công cụ cơ bản là ngôn ngữ và thời gian hay không. Chúng ta sẽ thấy rằng việc tiếp tục là điều không thể.
Ví dụ, có một đoạn văn thế này trong ký ức của chúng tôi: Vào ngày 6 tháng 5 năm kia, tôi và bạn bè đã đến Tận cùng Trái Đất ở Hải Nam và có một khoảng thời gian tuyệt vời. Tuy nhiên, một người bạn của tôi bị ốm vào thời điểm đó nên chuyến đi phải kết thúc sớm để đưa anh ấy đến bệnh viện.
Có bao nhiêu khái niệm và mốc thời gian trong đoạn văn này? Năm kia, ngày 6 tháng 5, và rất sớm đều là những khái niệm mang tính thời gian. Các chi tiết cần được phân tách ở đây, và buổi sáng, buổi chiều, thời gian kết thúc, số giờ chơi, v.v. đều cần được ghi nhớ;
Tôi, các bạn, một lần, Hải Nam, tận cùng trái đất, chơi, vui, ốm, bệnh viện, kết thúc, v.v. đều là những khái niệm. Chính những khái niệm này biến đổi ký ức từ hình ảnh thành những khái niệm trừu tượng và tích tụ trong tâm trí. Chi tiết của những khái niệm này cũng bao gồm tên bạn bè, v.v. Khi cần, chúng được trích xuất dựa trên kinh nghiệm của con người và khôi phục lại thành hình ảnh của ký ức.
Những ký ức này phải dựa trên sự tự nhận thức và suy nghĩ. Đây là quá trình chuyển đổi tư duy tượng hình thành trí nhớ trừu tượng dựa trên việc phân biệt bản thân với những thứ khác. Quá trình này chứa đầy sự hiểu biết và trải nghiệm của con người về thế giới. Mỗi người có hiểu biết và trải nghiệm khác nhau về thế giới, vì vậy khả năng lưu trữ và nhớ lại thông tin cũng khác nhau.
Trước 3 tuổi, con người chưa có ý thức hoàn chỉnh và rõ ràng về bản thân cũng như chưa có khái niệm ngôn ngữ trưởng thành. Họ cũng có ít hiểu biết về thế giới và kinh nghiệm sống, không có khả năng hình thành tư duy trừu tượng và tất nhiên không thể hình thành ký ức rõ ràng và đầy đủ.
Tuy nhiên, một số trẻ thông minh, phát triển nhận thức sớm và có khả năng học ngôn ngữ sớm có thể có một số trí nhớ trước 3 tuổi, nhưng chúng cũng thiếu logic và rời rạc.
Người ta thường tin rằng phải sau 7 tuổi, trẻ em mới dần có được sự hiểu biết nhất định về thế giới và trí nhớ logic mới bắt đầu được hình thành. Bạn có đồng ý với quan điểm của tôi không? Chào mừng bạn đến thảo luận, cảm ơn bạn đã đọc.
Bản quyền thuộc về Space-Time Communication. Vi phạm và đạo văn là hành vi phi đạo đức. Xin hãy hiểu và hợp tác.