Mơ thấy Trung Sơn: Di cư về phương Tây Mơ thấy Trung Sơn: Di cư về phương Tây

Mơ thấy Trung Sơn: Di cư về phương Tây

...Khi Chiến tranh chống Nhật nổ ra vào năm 1937, viện của chúng tôi đầu tiên chuyển đến Nam Việt, Hồ Nam, và sau đó chuyển đến Côn Minh, Vân Nam sau bốn tháng. Chúng tôi đến Côn Minh vào ngày 25 tháng 4 năm 1938 và lập văn phòng tại số 20, Tiểu Đông Thành Giáo. Chúng tôi ngay lập tức lên kế hoạch xây dựng một đài quan sát trên núi Phượng Hoàng ở làng Dương Phương Áo, ngoại ô phía đông Côn Minh. Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 8 tháng 11 năm 1938 và hoàn thành vào tháng 7 năm sau. Văn phòng của chúng tôi sau đó chuyển vào nhà ga.

Sau chiến thắng vào năm thứ 34, đơn vị của chúng tôi được lệnh trở về thủ đô. Ngày 28 tháng 5 năm sau, chúng tôi rời Côn Minh và trở về Bắc Kinh qua Trùng Khánh. Ngày 1 tháng 10, chúng tôi chính thức trở lại làm việc ở Bắc Kinh.

Đoạn văn trên được trích từ "Tổng quan về Viện Thiên văn học, Academia Sinica từ năm 1948 đến năm 1948". Đằng sau vài từ ngắn ngủi này là một hành trình gian nan, không chỉ đối với viện nghiên cứu thiên văn mới thành lập mà còn đối với cả đất nước.

Năm thứ 26 của Trung Hoa Dân Quốc

Năm 1937 là năm thảm họa sâu sắc đối với Trung Quốc và cũng là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hiện đại của Trung Quốc. Ngày 7 tháng 7, quân xâm lược Nhật Bản đã trắng trợn phát động "Sự kiện Lư Câu Kiều", cuộc kháng chiến toàn diện nổ ra. Vào cuối tháng 7, cuộc kháng chiến Bình Tân thất bại. Ngày 29 và 30 tháng 7, Bắc Kinh và Thiên Tân lần lượt bị quân đội Nhật Bản chiếm đóng. Ngày 13 tháng 8, Trận chiến Thượng Hải nổ ra và kéo dài trong ba tháng. Ngày 11 tháng 9, trận Thái Nguyên nổ ra và kéo dài gần hai tháng. Ngày 8 và 12 tháng 11, Thái Nguyên và Thượng Hải lần lượt thất thủ. Vào ngày 13 tháng 12, Nam Kinh, thủ đô của Chính phủ Quốc dân đảng, đã thất thủ...

Chuẩn bị cho việc di cư

Từ cuối tháng 7, tình hình ngày càng trở nên căng thẳng. Viện Thiên văn học đã làm theo hướng dẫn của viện và chuẩn bị di dời. Các nguyên tắc quyết định như sau:

(Sub) Lấy hết các dụng cụ nhỏ ra.

(Xấu) Thiết bị này quá nặng nên không thể vận chuyển được và các bộ phận có giá trị của nó (thấu kính của chân đế xích đạo) phải được tháo rời và đóng gói.

(Âm) Hầu hết các sách thiên văn đã được đóng gói và vận chuyển.

Các mặt hàng được vận chuyển theo nguyên tắc đầu tiên bao gồm máy quang phổ mặt trời, thiết bị sao biến đổi, máy so sánh flash, máy đo quang phổ vi mô Roche, đồng hồ bấm giờ, máy thu thanh, v.v. Các mặt hàng được vận chuyển theo nguyên tắc thứ hai bao gồm thấu kính cho các giá đỡ xích đạo lớn và nhỏ, đồng hồ thiên văn, v.v. (Ngoài ra, các bộ phận của hai đường xích đạo và các thiết bị phụ trợ của động mạch chủ tạm thời không được sử dụng và vì Nam Kinh sắp thất thủ nên việc vận chuyển rất khó khăn. Đại học Jinling tình cờ thuê một con tàu nên chúng tôi đã yêu cầu trường vận chuyển chúng đến Thành Đô và tạm thời mượn chúng để sử dụng.) Các mặt hàng được vận chuyển theo nguyên tắc thứ ba bao gồm 29 hộp sách.

“Thêm một ngày thử nghiệm có nghĩa là thêm một kỷ lục”

Vào thời điểm đó, các quan sát thiên văn trên Núi Tím vẫn đang được tiến hành. Cùng lúc đó, chúng tôi đang tích cực chuẩn bị cho hiện tượng nhật thực toàn phần sẽ xảy ra ở đất nước chúng tôi vào năm 1941.

Do máy quang phổ mặt trời và thiết bị đo sao biến quang có kích thước nhỏ và tương đối dễ tháo rời nên chúng được để tháo rời sau cùng với tinh thần "thêm một ngày đo nữa là thêm một kỷ lục". ...Việc quan sát kết thúc vào ngày 28 tháng 7.

Việc quan sát sao biến quang được dừng lại cuối cùng. Ngoài việc chụp ảnh các ngôi sao biến quang, thiết bị chụp ảnh sao biến quang còn có thể được sử dụng để chụp ảnh các sao mới, sao chổi, tinh vân thiên hà, v.v. Vào đêm trước cuộc Chiến tranh chống Nhật ở Thượng Hải ngày 13 tháng 8, các thiết bị này đã bị tháo dỡ. Vào đêm ngày 11 tháng 8, những bức ảnh về sao chổi Finsler đã được chụp để kỷ niệm.

Tất cả những bức ảnh chụp trong hai năm qua cũng được mang ra. Ngoài 79 bức ảnh về sao chổi, sao mới, thiên hà, v.v., tổng cộng đã thu được 207 bức ảnh về các ngôi sao biến quang thuần túy. Vào thời điểm đó, việc quan sát mặt trời và các ngôi sao biến quang đều là hoạt động hợp tác thiên văn quốc tế.

Sao chổi Finsler được Giáo sư P. Finsler của Đại học Zurich ở Thụy Sĩ phát hiện vào ngày 4 tháng 7 năm 1937. Sao chổi này có quỹ đạo hình parabol và có chu kỳ dài. Nó ở gần Trái Đất nhất vào đầu tháng 8. Vào ngày 11 tháng 8, có thể nhìn thấy nó bằng mắt thường ở gần Khai Dương, một trong nhóm sao Bắc Đẩu trong chòm sao Đại Hùng. Sao chổi này được liệt kê trong danh sách các sao chổi lớn của thế kỷ 20. Thật không may, đoạn phim quý giá được quay vào tối ngày 11 tháng 8 này hiện đã bị mất. Thật đáng tiếc. Chúng tôi đã tìm thấy những bức ảnh chụp ở nước ngoài vào thời điểm đó để cung cấp cho độc giả.

Sao chổi Finsler được chụp ở nước ngoài vào ngày 8 tháng 8 năm 1937, phơi sáng trong 5 giờ. | Nguồn hình ảnh: Kho lưu trữ hình ảnh sao chổi BAA/TA

Di cư về phía Tây

Địa điểm văn phòng đã có sự thay đổi. Vì núi Tử Kim đã nằm trong khu vực pháo đài từ lâu và Chiến tranh chống Nhật nổ ra, giao thông leo núi ngày càng bị hạn chế, nên sáng ngày 15 tháng 8, văn phòng được chuyển đến ngõ Thượng Thư trong thành phố. Không ngờ, Nam Kinh đã hứng chịu cuộc không kích đầu tiên vào buổi chiều hôm đó và quả bom đã rơi xuống gần đó. Những ngôi nhà bị rung chuyển mạnh nên họ phải chuyển đến ngõ Giang Quân. Ngày 27 tháng 8, Nam Kinh lại bị tấn công vào ban đêm. Hai quả bom rơi xuống sân và hơn một nửa tòa nhà bị sụp đổ. Ba công nhân đã tử nạn. Nhân viên Yang Jun bị thương. Vì vậy, ngày hôm sau, họ chuyển văn phòng đến đường Chibi (nhà của Yu Qingsong). Cùng lúc đó, ngoài một số nhân viên ở lại Bắc Kinh, một số nhân viên đã được điều đến Nam Việt cùng các viện khác trong học viện, và một bộ phận nhân viên khác đã được sơ tán vào thời điểm này. Vào cuối tháng 12, tình hình ở Nam Kinh ngày càng căng thẳng, những nhân viên ở lại Bắc Kinh cũng lần lượt đi Hồ Nam. Ngày 28 tháng 12, chúng tôi di chuyển từ Nam Việt đến Quế Lâm, Quảng Tây. Tôi rời Quảng Tây vào ngày 18 tháng 4 năm thứ 27 và chuyển đến Côn Minh, Vân Nam vào ngày 25.

Theo sự triển khai của Academia Sinica vào thời điểm đó, bốn viện, bao gồm Viện Thiên văn học, Lịch sử và Ngôn ngữ học, Kỹ thuật và Hóa học, đã được chuyển đến Côn Minh qua Hồ Nam. Ngày 23 tháng 8 năm 1937, Viện Thiên văn học đã cử một đội tiên phong mang theo sách phương Tây và các thiết bị đo sao biến đổi, máy quang phổ mặt trời, thiết bị đo thời gian, v.v. đến Vũ Hán bằng tàu thủy, sau đó đến Trường Sa và sau đó đến Chùa Hằng Sơn ở Nam Việt. Đạo diễn Yu Qingsong và những người khác ở lại Nam Kinh đã làm việc ở nhiều nơi khác nhau trong thành phố cho đến tháng 12 khi họ rút lui về Trường Sa và sau đó chuyển đến Chùa Nam Việt. Sau khi sáp nhập với Viện Thiên văn học, viện này cùng các viện khác di tản đến Quế Lâm và ở lại Quế Lâm khoảng nửa năm. Vào mùa xuân năm 1938, đoàn tàu di chuyển qua Việt Nam đến Vân Nam và cuối cùng đến Côn Minh vào ngày 25 tháng 4.

Đài quan sát núi Phượng Hoàng

Nghiên cứu thiên văn dựa trên quan sát. Thời tiết ở Nam Kinh thường nhiều mây và mưa, ngoại trừ mùa thu và mùa đông, và có rất ít cơ hội để quan sát trong suốt cả năm. Vì vậy, viện chúng tôi đã có kế hoạch thành lập một chi nhánh từ lâu. Lần này di cư qua ba tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây và Vân Nam, thời tiết và địa điểm dọc đường đều không thích hợp. Sau khi chuyển đến Vân Nam, tôi biết rằng Côn Minh có thời tiết đặc biệt tốt. Mặt đất cao, không khí loãng, các vì sao sáng, ngoại trừ mùa mưa, hầu hết là những ngày nắng, quả thực thích hợp cho việc quan sát thiên văn. Do đó, trong sáu tháng qua, trọng tâm là công tác thi công tại trạm. Họ tìm kiếm những khu vực xung quanh để tìm địa điểm thích hợp và lần lượt chọn Hắc Long Đàm, Thái Hoa Sơn và Phượng Hoàng Sơn. Địa hình của ba địa điểm đã được khảo sát và lập bản đồ hoàn chỉnh. Quyết định cuối cùng là sử dụng Núi Phượng Hoàng, nằm trên đất công ở Làng Đại Dương Phương Vượng. Một hợp đồng đã được ký với đại diện của làng để thuê đất trong 20 năm (được phép gia hạn sau khi hợp đồng thuê hết hạn). Giám đốc Xuan Youyu đã đích thân thiết kế bản vẽ cho sân ga chi nhánh và ký túc xá cho nhân viên và giao cho Nhà máy xây dựng Lu Genji xây dựng.

Đài quan sát núi Phượng Hoàng (Ảnh do Joseph Needham chụp ngày 2 tháng 9 năm 1944, do Đài quan sát Vân Nam cung cấp)

Đài quan sát núi Phượng Hoàng chính thức được khởi công vào ngày 8 tháng 11 năm 1938 và hoàn thành vào mùa xuân năm 1939. Đài quan sát núi Phượng Hoàng không lớn, chỉ có ba ngôi nhà gỗ có tường gạch, dùng làm trụ sở (văn phòng, phòng sao biến đổi, phòng quang phổ kế mặt trời, thư viện, phòng tiếp tân, v.v.), ký túc xá cho nhân viên và phòng hậu cần. Tòa nhà này được thiết kế bởi chính giám đốc viện là Yu Qingsong. Đây là đài quan sát thứ hai do ông thiết kế và tổ chức xây dựng sau Đài quan sát Tử Kim tám năm sau đó.

Một viên gạch có dòng chữ "Viện Thiên văn học" tại Đài quan sát Núi Phượng Hoàng (do Đài quan sát Vân Nam cung cấp)

Các thiết bị được mang từ Nam Kinh về cũng được lắp đặt lần lượt. Vào thời điểm đó, chỉ có hai thiết bị hoạt động: máy quang phổ mặt trời Haier và máy ảnh sao biến quang Roche. Vào tháng 5 năm 1939, các quan sát thiên văn bị gián đoạn trong gần hai năm đã được tiếp tục một phần tại Đài quan sát núi Phoenix mới xây dựng và các nghiên cứu hợp tác quốc tế liên quan vẫn tiếp tục.

Máy ảnh sao biến đổi Rothschild được lắp đặt tại Đài quan sát núi Phượng Hoàng (do Đài quan sát Vân Nam cung cấp)

Từ khi đến Côn Minh vào ngày 25 tháng 4 năm 1938 đến khi rời Côn Minh vào ngày 28 tháng 5 năm 1946, Viện Thiên văn học đã tồn tại tổng cộng tám năm tại Côn Minh.

Cuộc chiến đã làm gián đoạn sự phát triển ổn định của khoa học và công nghệ, nhưng nó lại củng cố thêm niềm tin của các nhà khoa học vào việc cứu đất nước thông qua khoa học. Cuộc di cư về phía tây vào thời điểm đó là để bảo tồn tia lửa khoa học, hoàn thành sự nghiệp khoa học còn dang dở, và cũng để gieo mầm cho những tia lửa mới.

Tổng biên tập luân phiên: Du Fujun

Biên tập: Vương Khắc Siêu